Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Blackpink”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao |
Thẻ: Đã bị lùi lại Soạn thảo trực quan |
||
Dòng 36:
== Lịch sử ==
=== 2010–2016: Trước khi ra mắt cho cả thế giới có thêm một đống simp chúa ===
{{quote box
| class = letterhead
Dòng 46:
}}
Blackpink được lên kế hoạch thành lập khi [[YG Entertainment]] tổ chức các buổi tuyển chọn những tân binh thuộc lứa tuổi vị thành niên và thanh thiếu niên trên toàn thế giới để thành lập một nhóm nhạc nữ mới sau khi nhóm nhạc nữ lớn đầu tiên, [[2NE1]], ra mắt hồi năm 2009.{{sfn|Besley|2019|p=11}}<ref>{{chú thích web|họ=Glasby|first1=Taylor|title=How Blackpink became the biggest K-pop girl band in the world|url=https://www.vogue.fr/fashion/article/how-blackpink-became-the-biggest-k-pop-girl-band-in-the-world|website=Vogue Paris|accessdate=2020-11-11|archiveurl=https://web.archive.org/web/20201111041217/https://www.vogue.fr/fashion/article/how-blackpink-became-the-biggest-k-pop-girl-band-in-the-world|ngày lưu trữ=2020-11-11|language=en|date=2020-08-31}}</ref> Theo các thành viên, việc tham gia
Thành viên đầu tiên của nhóm được tiết lộ là [[Jennie Kim|Jennie]] vào ngày [[1 tháng 6]].<ref>{{chú thích web|url=http://osen.mt.co.kr/article/G1110426941|title=YG 걸그룹, 첫 멤버 제니 공개..실력+비주얼 다 갖췄다|tác giả=|họ=|tên=|date=1 tháng 6 năm 2016|website=Osen|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201109052843/http://osen.mt.co.kr/article/G1110426941|ngày lưu trữ=9 tháng 11 năm 2020|url hỏng=|access-date=2020-11-08}}</ref> Cô gia nhập YG Entertainment với tư cách là thực tập sinh vào năm 2010 sau khi chuyển về Hàn Quốc từ [[New Zealand]].<ref name="trainee">{{Chú thích báo|url=https://entertain.naver.com/read?oid=052&aid=0001163639|title=[Y기획②]멤버를 알면 '진짜' 블랙핑크가 보인다|last=|first=Seung-hoon|date=7 tháng 7 năm 2018|work=YTN|access-date=2020-11-08|archive-url=https://web.archive.org/web/20201109024948/https://entertain.naver.com/read?oid=052&aid=0001163639|archive-date=9 tháng 11 năm 2020|language=ko|họ=Ji}}</ref> Năm 2012, cô lần đầu tiên được giới thiệu với công chúng qua bộ ảnh mang tên "Who's that girl?" được đẳng tải lên blog chính thức của YG Entertainment vào ngày 10 tháng 4.{{sfn|Besley|2019|p=12–13}}<ref>{{chú thích web|url=https://entertain.naver.com/read?oid=014&aid=0002628723|title=YG 미스테리걸 등장, 눈에 띄는 미모 新걸그룹 멤버(?)|tác giả=|họ=|tên=|date=20 tháng 4 năm 2012|work=Financial News|publisher=Naver|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201109025016/https://entertain.naver.com/read?oid=014&aid=0002628723|ngày lưu trữ=9 tháng 11 năm 2020|url hỏng=|access-date=2020-11-09}}</ref> Jennie liên tục được quảng bá với tư cách là thành viên của nhóm nhạc nữ mới qua những lần hợp tác với những nghệ sĩ khác cùng công ty. Cô từng đảm nhận vai chính trong video âm nhạc "That XX" năm 2012 từ EP ''[[One of a Kind (EP)|One of a Kind]]'' của [[G-Dragon]] và từng góp giọng trong ca khúc "Black" từ album ''[[Coup d'Etat (album của G-Dragon)|Coup d'etat]]'' của G-Dragon và trong "Special" từ album ''[[First Love (album của Lee Hi)|First Love]]'' của [[Lee Hi]] năm 2013.<ref>{{chú thích web|url=http://star.mt.co.kr/stview.php?no=2012082915564047813|title=YG새걸그룹' 김제니, GD 뮤비 여주인공 전격발탁|tác giả=|họ=|tên=|date=29 tháng 8 năm 2012|website=Star News|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201109023036/http://star.mt.co.kr/stview.php?no=2012082915564047813|ngày lưu trữ=6 tháng 8 năm 2020|url hỏng=|access-date=2020-11-08}}</ref><ref>{{chú thích web|url=https://www.complex.com/music/2013/09/g-dragon-coup-detat-making-of/black-jennie-kim|title=The Making of G-Dragon's "Coup D'Etat" "Black" feat. Jennie Kim|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=Complex|language=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201109023020/https://www.complex.com/music/2013/09/g-dragon-coup-detat-making-of/black-jennie-kim|ngày lưu trữ=11 tháng 11 năm 2020|url hỏng=|access-date=2020-11-08}}</ref><ref>{{chú thích web|url=http://www.edaily.co.kr/news/Read?newsId=01167686602740040&mediaCodeNo=258|title=YG 새 걸그룹 김제니, 이하이 첫 솔로앨범 참여 '눈길'|tác giả=|họ=|tên=|date=4 tháng 3 năm 2013|website=EDaily|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20200609034816/https://www.edaily.co.kr/news/Read?newsId=01167686602740040&mediaCodeNo=258|ngày lưu trữ=30 tháng 10 năm 2020|url hỏng=|access-date=2020-11-08}}</ref> Vào ngày [[8 tháng 6]], hình ảnh của thành viên thứ hai là [[Lisa (ca sĩ Thái Lan)|Lisa]] được tiết lộ.<ref name="lisa">{{chú thích web|url=http://osen.mt.co.kr/article/G1110432048|title=[뮤직톡톡]제니 이어 리사..YG 걸그룹=걸크러시?|tác giả=|họ=|tên=|date=8 tháng 6 năm 2016|website=Osen|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201030203033/http://osen.mt.co.kr/article/G1110432048|ngày lưu trữ=30 tháng 10 năm 2020|url hỏng=|access-date=2020-11-08}}</ref> Lisa chính là cô nàng bí ẩn gây nhiều ấn tượng với người hâm mộ trong đoạn video "Who's that girl?" mà [[YG Entertainment|YG]] đăng trên [[YouTube|Youtube]] vào năm [[2012]].{{sfn|Besley|2019|p=13}}<ref name=lisa /> Cô đã vượt qua buổi thử giọng đầu tiên vào năm [[2010]] của công ty tại [[Thái Lan]]. Với tư cách là người chiến thắng, cô là người duy nhất trong hơn 4000 thí sinh chính thức trở thành thực tập sinh của YG Entertainment vào tháng 4 năm 2011, trở thành thực tập sinh ngoại quốc đầu tiên gia nhập công ty.<ref name=trainee /><ref>{{chú thích web|last1=Mitchell|first1=Molli|title=Blackpink Lisa Instagram: How to follow Lisa on Instagram|url=https://www.express.co.uk/showbiz/tv-radio/1348678/Blackpink-Lisa-instagram-account-username-follow-Lisa-on-Instagram-evg|website=Express|accessdate=2020-11-14|archiveurl=https://web.archive.org/web/20201101121117/https://www.express.co.uk/showbiz/tv-radio/1348678/Blackpink-Lisa-instagram-account-username-follow-Lisa-on-Instagram-evg|archivedate=2020-11-01|language=en|date=2020-10-16}}</ref> Lisa từng là thành viên của nhóm nhảy "We Zaa Cool" tại [[Thái Lan]] cùng với [[BamBam (ca sĩ)|Bambam]] của [[Got7]] và nhiều người bạn khác.<ref>{{chú thích web|url=https://theindependent.sg/lisa-of-blackpink-donates-to-help-flood-victims-in-thailand/|title=Lisa of BLACKPINK donates to help flood victims in Thailand|tác giả=|họ=Koh|first1=Lydia|date=2019-09-22|website=The Independent Singapore|language=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201109064037/https://theindependent.sg/lisa-of-blackpink-donates-to-help-flood-victims-in-thailand/|ngày lưu trữ=9 tháng 11 năm 2020|url hỏng=|accessdate=2020-11-09}}</ref> Cô cũng xuất hiện trong MV "[[Ringa Linga (Taeyang song)|Ringa Linga]]" của [[Taeyang]] vào năm 2013. Sau đó, Lisa trở thành người mẫu cho thương hiệu thời trang đường phố [[YG Entertainment#Công ty con|Nona9on]] vào năm 2015 và thương hiệu mỹ phẩm [[YG Entertainment#Công ty con|Moonshot]] vào năm 2016.<ref name="predebut">{{chú thích web|url=https://www.donga.com/news/article/all/20160811/79708918/4|title=[블랙핑크 VS 투애니원③] 블랙핑크는 누구?|author=|tên=|date=12 tháng 8 năm 2016|website=Donga News|language=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20200905233944/https://www.donga.com/news/article/all/20160811/79708918/4|ngày lưu trữ=5 tháng 9 năm 2020|url hỏng=|access-date=2020-11-08}}</ref>
Dòng 139:
Vào ngày 16 tháng 10 năm 2019, phiên bản tiếng Nhật của "Kill This Love" được phát hành tại thị trường Nhật Bản, đạt vị trí thứ 17 trên Bảng xếp hạng album Oricon.<ref>{{chú thích web|url=https://music.apple.com/us/album/kill-this-love-japan-version-ep/1482719359|title=Kill This Love Japanese Version|tác giả=|họ=|tên=|ngày=|website=Apple Music|publisher=Apple Inc.|ngôn ngữ=en|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201006010022/https://music.apple.com/us/album/kill-this-love-japan-version-ep/1482719359|ngày lưu trữ=6 tháng 10 năm 2020|url hỏng=|ngày truy cập=2020-11-10}}</ref> Nhóm sau đó đã sang Nhật tiến hành nhiều hoạt động quảng cáo, xuất hiện trên các chương trình truyền hình âm nhạc như ''[[Music Station]]'' của [[TV Asahi]] và ''Love Music'' của [[Fuji TV]]. Ngày 11 tháng 11 năm 2019, video âm nhạc "Ddu-Du Ddu-Du" chính thức cán mốc 1 tỷ lượt xem, trở thành MV của nhóm nhạc K-pop có nhiều lượt xem nhất trên YouTube và cũng là nhóm nhạc K-Pop đầu tiên chạm tới cột mốc này.<ref>{{chú thích web|url=https://star.mt.co.kr/stview.php?no=2019101808321893534|title=블랙핑크, 오늘(18일) 데뷔 후 처음 日 '엠스테' 출연|tác giả=|họ=|tên=|date=18 tháng 10 năm 2019|website=|publisher=Starnews|ngôn ngữ=ko|url lưu trữ=https://web.archive.org/web/20201028113154/https://star.mt.co.kr/stview.php?no=2019101808321893534|ngày lưu trữ=28 tháng 10 năm 2020|url hỏng=|ngày truy cập=2020-11-10}}</ref>
=== 2020: ''The Album'' và phim tài liệu ''Thắp sáng bầu trời chỉ có một lũ simp chúa đi xem'' ===
{{chính|The Album (album của Blackpink)|Thắp sáng bầu trời (phim 2020)}}
Vào ngày 22 tháng 4, nhóm được xác nhận sẽ góp mặt trong album phòng thu thứ sáu của [[Lady Gaga]], ''[[Chromatica]],'' bài hát có tên là "[[Sour Candy (bài hát của Lady Gaga và Blackpink)|Sour Candy]]".<ref>{{chú thích web|họ=Daw|first1=Stephen|title=Lady Gaga Confirms 'Chromatica' Track List, With Some A-List Guests|url=https://www.billboard.com/articles/columns/pop/9363808/lady-gaga-chromatica-official-track-list|website=Billboard|accessdate=2020-11-12|archiveurl=https://web.archive.org/web/20201028083544/https://www.billboard.com/articles/columns/pop/9363808/lady-gaga-chromatica-official-track-list|ngày lưu trữ=2020-10-08|language=en|date=2020-04-22}}</ref> Ca khúc chính thức ra mắt vào ngày 28 tháng 5. Trên bảng xếp hạng [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]], bài hát đã ra mắt ở vị trí thứ 33. Đây là lần thứ 25 Gaga có mặt trong top 40 hit và là lần đầu tiên Blackpink xuất hiện trong top 40 hit, trở thành bài hát xếp hạng cao nhất của họ ở Mỹ cho đến nay cũng như bài hát xếp hạng cao nhất của một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc.<ref>{{chú thích web|họ=Rolli|first1=Bryan|title=Blackpink Reached A New Hot 100 Peak With ‘Sour Candy,’ But Their Next Single Could Chart Even Higher|url=https://www.forbes.com/sites/bryanrolli/2020/06/10/blackpink-new-album-new-single-hot-100-sour-candy/?sh=5fc460f41586|website=Forbes|accessdate=2020-11-12|archiveurl=https://web.archive.org/web/20201112004713/https://www.forbes.com/sites/bryanrolli/2020/06/10/blackpink-new-album-new-single-hot-100-sour-candy/?sh=5fc460f41586|ngày lưu trữ=2020-11-12|language=en|date=2020-06-10}}</ref> Tại [[Úc]], bài hát ra mắt tại vị trí thứ 8, trở thành đĩa đơn đầu tiên của Blackpink lọt top 10 tại đất nước này.<ref>{{chú thích web|url=https://www.sbs.com.au/popasia/blog/2020/06/08/blackpink-hit-aria-top-10-lady-gagas-sour-candy|title=BLACKPINK hit ARIA Top 10 with Lady Gaga's "Sour Candy"|publisher=SBS PopAsia|date=8 tháng 6 năm 2020|accessdate=14 tháng 6 năm 2020|archiveurl=https://web.archive.org/web/20201101122927/https://www.sbs.com.au/popasia/blog/2020/06/08/blackpink-hit-aria-top-10-lady-gagas-sour-candy|ngày lưu trữ=2020-11-01}}</ref> Bài hát cũng trở thành đĩa đơn đầu tiên lọt top 20 tại [[Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland|Vương quốc Anh]] của nhóm khi nó ra mắt ở vị trí thứ 17.<ref>{{chú thích web|họ=Savage|first1=Mark|title=Lady Gaga's Chromatica is the fastest-selling album of 2020|url=https://www.bbc.com/news/entertainment-arts-52939957|website=BBC News|accessdate=2020-11-12|archiveurl=https://web.archive.org/web/20201103030519/https://www.bbc.com/news/entertainment-arts-52939957|ngày lưu trữ=2020-11-03|date=2020-06-05}}</ref>
|