Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bò vàng Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 8:
[[Tập tin:Bò tơ Củ Chi.JPG|300px|nhỏ|phải|Một con bò tơ ở Củ Chi]]
Vào giữa thế kỷ 20 thì ngành chăn nuôi đã sắp xếp những giống chính trong nước gồm:<ref>Dinh-Chinh Vu. ''L'Élevage bovin au Viet-Nam''. Lyon: Bosc Frères, 1955. Tr 17-23</ref>
#Bò Cao Bằng: phổ biến ở Cao Bằng, Đồng Đăng, Kỳ LừLừa, Lạng Sơn, nay gọi là bò Lạng Sơn
#Bò Thanh Hóa: phổ biến ở Thanh Hóa và [[Xứ Mường]]
#Bò Vinh: phổ biến ở Nghệ An, Hà Tĩnh và Xứ Mường, nay gọi là bò Nghệ An
Dòng 18:
 
Trong các giống bò kể trên thì bò Thanh Hóa là giống bò nội địa lớn nhất, cân nặng đến 400 [[kg]], vai cao 1 m 15 đến 1 m 27. Giống bò nhỏ nhất là bò Cao nguyên Trung phần, cân nặng không quá 200 kg.
 
==Xem thêm==
* [[Bò Thanh Hóa]]