Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Manic Street Preachers”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã cứu 1 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.8
Thẻ: Đã bị lùi lại
Dòng 56:
Đầu năm 1994, những biến cố đời tư của Edwards trở nên trầm trọng hơn và bắt đầu ảnh hưởng đến các thành viên khác trong nhóm cũng như chính bản thân anh. Anh thừa nhận mình đã vào [[Bệnh viện Priory|viện tâm thần Priory]] để khắc phục những vấn đề của mình và ba thành viên còn lại của nhóm đi biểu diễn tại các nhạc hội để trả tiền viện phí cho anh.<ref name="Price"/> Album kế tiếp của ban nhạc ''[[The Holy Bible]]'' được phát hành vào tháng 8 có lượng đánh giá chuyên môn tốt nhưng doanh số lại kém. Album đã thể hiện một sự thay đổi về âm nhạc và gu thẩm mỹ khác đối với ban nhạc, chủ yếu là bởi sự xuất hiện của bộ quân phục của lính thường/hải quân. Về mặt nhạc tố, ''The Holy Bible'' đánh dấu một sự chuyển mình từ thứ âm thanh [[modern rock]] trong hai album đầu tiên ''Generation Terrorists'' và ''Gold Against the Soul''.<ref name="O'Neil">{{chú thích web |url=http://www.popmatters.com/review/manicstreetpreachers-holybible2005/ |title=Manic Street Preachers: ''The Holy Bible'' –– 10th Anniversary Edition|last=O'Neil |first=Tim |date=19 tháng 5 năm 2005 |website=[[PopMatters]] |accessdate=30 tháng 12 năm 2017}}</ref> Bên cạnh âm thanh [[alternative rock]], album kết hợp thêm nhiều yếu tố từ các dòng nhạc khác như [[hard rock]], [[punk rock|punk kiểu Anh]], [[post-punk]], [[nhạc new wave|new wave]], [[nhạc industrial|industrial]], [[art rock]] và [[gothic rock]].<ref name="Price"/><ref name="Martin">{{chú thích web |url=http://www.nme.com/reviews/7538 |title=NME Reviews – Manic Street Preachers: ''The Holy Bible'' (Tenth Anniversary Edition)|last=Martin |first=Dan |date=12 tháng 9 năm 2005 |website=[[NME]] |accessdate=30 tháng 12 năm 2017}}</ref>
 
Edwards đột ngột mất tích vào ngày 1 tháng 2 năm 1995, thời điểm anh và James Dean Bradfield chuẩn bị bay sang Mỹ trong một chuyến lưu diễn quảng bá.<ref name="Price 1999, pp. 177-178">Price (1999), pp. 177–178.</ref> Trong hai tuần trước khi mất tích, Edwards rút 200 [[bảng Anh|bảng]] mỗitrong một ngày từ tài khoản ngân hàng của mình, tính đến ngày chuyến bay khởi hành theo lịch trình thì tổng số tiền anh đã rút là 2.800 bảng.<ref name="IOS">{{chú thích báo| first=Andy | last=Beckett | pages= | title=Missing street preacher | date=2 tháng 3 năm 1997 | publisher=The Independent on Sunday | url= }}</ref><ref>Price (1999), p. 178.</ref> Anh làm thủ tục rời khỏi Khách sạn Embassy, [[đường Bayswater]], Luân Đôn lúc 7 giờ sáng rồi lái xe đến căn hộ của mình ở [[Cardiff]], xứ Wales. Trong hai tuần kế tiếp anh bị phát hiện rõ ràng hiện diện lần lượt tại văn phòng hộ chiếu [[Newport]]<ref>Price (1999), p. 183.</ref> và trạm xe buýt Newport.<ref name="SP180">Price (1999), p. 180.</ref> Ngày 7 tháng 2, một tài xế taxi từ Newport được cho là đã đón Edwards từ khách sạn King's Hotel tại Newport và lái xe chở anh đi quanh các thung lũng, bao gồm cả Blackwood (mái nhà thời thơ ấu của Edwards). Vị khách xuống xe tại trạm dịch vụ phương tiện Severn View gần làng [[Aust]] và trả phí đi xe 68 bảng bằng tiền mặt.<ref>{{chú thích báo| first=Alex | last=Bellos | pages=T.010 | title=Music: Desperately seeking Richey | date=26 tháng 1 năm 1996|publisher=The Guardian | url= }}</ref>
 
Ngày 14 tháng 2, chiếc [[Vauxhall Cavalier]] của Edwards đã nhận một chiếc vé phạt đỗ xe tại trạm dịch Severn View, đến ngày 17 tháng 2 thì phương tiện này được thông báo là đã bị bỏ hoang.<ref name="Price 1999, pp. 177-178"/><ref name="IOS"/><ref>{{chú thích news | author =BBC staff reporter | title=Ten-year tragedy of missing Manic | date=1 tháng 2 năm 2005|publisher=BBC | url=http://news.bbc.co.uk/1/hi/entertainment/music/4210451.stm|accessdate=30 tháng 1 năm 2018}}</ref> Cảnh sát phát hiện [[ắc qui]] xe hết điện cùng bằng chứng cho thấy từng có người sống trong xe. Do trạm dịch vụ khá gần với [[Cầu Severn]] (địa điểm từng là nơi nổi tiếng về nạn [[tự tử]] trong quá khứ),<ref>{{chú thích báo|tác giả=Helen Pidd|url=https://www.theguardian.com/music/2008/nov/29/richey-edwards-manic-street-preachers|tiêu đề=Richey Edwards case closed: how 14 years of hope ended|nhà xuất bản=[[The Guardian]]|ngày truy cập=28 tháng 11 năm 2018}}</ref> nhiều người tin rằng Edwards đã kết liễu đời mình bằng cách nhảy cầu.<ref>{{chú thích web|url=https://www.bbc.co.uk/news/entertainment-arts-14264609 |title=Amy Winehouse joins iconic stars who died aged 27|date=25 tháng 7 năm 2011|publisher=BBC|accessdate=25 tháng 7 năm 2017}}</ref> Tuy nhiên nhiều người từng quen biết anh lại cho biết Edwards chưa bao giờ là kiểu người ý định tự sát, họ trích dẫn lời của chính anh vào năm 1994, "Khi đề cập đến từ 'S' (chữ cái đầu tiên của từ tiếng Anh Suicide - tự tử), điều đó chưa bao giờ đi vào tâm trí tôi. Và về mặt ý định thì nó cũng chưa bao giờ thành hiện thực. Bởi vì tôi mạnh mẽ hơn thế. Có thể tôi là một kẻ yếu đuối, nhưng tôi vẫn có thể chịu đựng được đau đớn."<ref>{{chú thích web|url=http://www.richeyedwards.net/index.html |title=The Last of Richey Edwards? |publisher=Richeyedwards.net |date= |accessdate=3 tháng 4 năm 2017}}</ref>