Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Vương Hi Chi”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 25:
Vương Hi Chi người [[Lang Tà quận]], thuộc Kiều tính Sĩ tộc [[Lang Tà Vương thị]] (nay là huyện Lâm Nghi, [[Sơn Đông]]), cùng quê với [[Gia Cát Lượng]]. Sau gia đình ông di cư tới [[Sơn Âm]] (nay là [[Thiệu Hưng]], [[Chiết Giang]]). Ông sinh ra trong gia đình có truyền thống thư pháp. Cha ông là [[Vương Khoáng]] (王旷), bác ông là [[Vương Đạo]] (王廙), [[Vương Bân]] (王彬) đều làm quan cao trong triều đình và giỏi thư pháp.
 
Vương Hi Chi sinh ra cuối thời [[Tây Tấn]]. Ông lớn lên thời loạn [[Ngũ Hồ thập lục quốc]], gia đình chuyển xuống [[Giang Nam]] và làm quan nhà [[Nhà Tấn|Đông Tấn]].
 
Năm [[323]], bác họ Vương Hi Chi là [[Vương Đôn]] nổi loạn chống triều đình nên gia đình ông bị liên lụy và bị bắt giam. Sau này loạn Vương Đôn chấm dứt, gia đình ông được tha tội nhưng vụ việc tác động lớn đến tâm lý ông khiến ông không tha thiết với quan trường<ref>Nguyễn Thanh Hà, sách đã dẫn, tr 90</ref>.
Dòng 42:
 
Năm lên 11 tuổi, vô tình có lần ông thấy dưới gối cha có cuốn sách nói về nghệ thuật thư pháp của đời trước, Hi Chi bắt đầu chú ý. Nhân lúc cha ra khỏi phòng, Hi Chi thường vào lấy sách đọc trộm. Cha ông nghi ngờ nhưng chưa rõ con mình vào làm gì. Về sau, mẹ ông biết chuyện, khuyên đợi khi nào lớn cha sẽ truyền thụ cho. Hi Chi đáp rằng:
:''Con đã hiểu tường tận điều trong sách rồi, đợi khi con lớn e rằng đã muộn.''
 
Cha Hi Chi thấy con còn nhỏ đã có chí, bèn dạy con học. Chỉ qua thời gian ngắn, thư pháp của ông đã tiến bộ vượt bậc. Vệ phu nhân xem chữ ông viết, nói với Vương Sách rằng:
Dòng 52:
Lớn lên, Vương Hi Chi rất khâm phục bút pháp Công Khải thư của [[chương thảo|Chương Thảo]] mà nhiều người cho rằng kỳ diệu nhất khi đó. Ông đi chu du nhiều nơi, gặp các nhà thư pháp nổi tiếng khi đó như Lý Tư, [[Chung Dao]], [[Trương Sưởng]], Trương Chi...<ref>Lý Tư này không phải Lý Tư thừa tướng dưới đời [[Tần Thủy Hoàng]]; Trương Chi này cũng không phải là Trương Chi trong truyện cổ tích và bài hát của [[Văn Cao]]</ref>, thay đổi dần những hạn chế của mình và tiếp thu những tinh hoa của những người đi trước.
 
Trong số những người đã gặp, ông học được nhiều nhất ở Chung Dao và Trương Chi. Tiếp thu từ Chung Dao - người được coi là ông tổ của cách viết chữ Khải - Vương Hi Chi lược bớt những tồn tại của chữ Lệ, "thêm bớt xương thịt", nhấn mạnh vào nhuận sắc và "uyển thái nghiên hoa". Cách viết của Vương Hi Chi đã tạo ra một thể độc lập, khiến mọi người cho rằng thư pháp thời trước ông đều phế bỏ, thư pháp hiện tại do ông sáng lập<ref name="ReferenceA">Tiêu Lê, Mã Ngọc Chu, Lã Diên Đào, sách đã dẫn, tr 203</ref>.
 
Tiếp thu từ Trương Chi, ông khắc phục sự rời rạc, đứt đoạn giữa các chữ, khiến cho chúng trong nét đậm có nét mờ, nét gập; hoà tình cảm vào nét bút, nâng nghệ thuật viết thư pháp lên một tầm cao mới và được lưu truyền rộng rãi thời Đông Tấn.
Dòng 61:
 
== Lý luận về thư pháp ==
Học thành tài, kiến thức lý luận về thư pháp của Vương Hi Chi cũng đạt đến mức uyên bác. Tổng hợp từ nhiều sách vở đã được đọc, ông viết thành nhiều cuốn sách lý luận nổi tiếng như: ''Đề Vệ phu nhân bút trận đồ hoạhậu'' (Bàn luận về bút pháp của Vệ phu nhân trên bức tranh), ''Bút thế luận'' (Lý luận về thế bút), ''Dụng bút tặcphú''.
 
Qua nghiên cứu, ông cho rằng: viết bút pháp cũng như bày binh bố trận, biết vận dụng tốt sẽ thu kết quả; bút pháp cũng cần có "xảo", "nhẫn", dứt khoát, quyết đoán. Ông đặc biệt coi trọng ý bút: khi muốn viết phải mài mực trước; mài mực xong để tinh thần thư thái rồi nghĩ đến thế chữ, phải dự tính chữ lớn hay chữ nhỏ, nét đậm nét nhạt ra sao, liên kết với nhau như thế nào, sau đó mới đặt bút viết.
Dòng 72:
 
== Tác phẩm ==
* ''Đề Vệ phu nhân bút trận đồ hậu''
* ''Bút thế luận''
* ''Dụng bút phú''
 
Ngoài những tác phẩm trên thì tác phẩm nổi tiếng nhất mà ông để lại là ''Lan Đình tập tự''. Đây là tác phẩm thể hiện tài năng của ông. Mùa hè năm 355, ông cùng một số nhà văn, nhà thơ tụ tập ở núi Cối Kê tại Lan Đình tránh nắng, cùng nhau uống rượu và làm thơ. Khi đó Vương Hi Chi cao hứng, lấy bút lông chuột viết lên giấy lụa, đó chính là tác phẩm Lan Đình.
 
Lan Đình tập tự được người đời ví như mặtMặt trờiTrời, Mặt Trăng giữa bầu trời<ref>Tiêu Lê, Mã Ngọc Chu, Lã Diên Đào, sách đã dẫn, tr 207</ref>, được mệnh danh là "Thiên hạ đệ nhất hành thư", đến ngàn năm sau hậu thế vẫn thán phục.
 
Tương truyền [[Đường Thái Tông]] vì quá mê cuốn sách này, cho người đi khắp nơi truy tìm bản gốc. Cuối cùng tìm ra nhà sư Biện Tài là chủ nhân. Dù rất nhiều lần thuyết phục, thậm chí doạ nạt Biện Tài, vua Đường đành để Biện Tài mang sách về. Không cam chịu, Thái Tông sai một mưu sĩ là Tiêu Dực cải trang thành thư sinh đến kết bạn với Biện Tài. Khi đã thân quen, nhân một hôm Biện Tài đi vắng, Tiêu Dực bèn lấy trộm Lan Đình tập tự mang về cho vua Đường. Đường Thái Tông quý sách, khi chết không chôn theo mà sai để lại làm báu vật cho hậu thế. (Bảnbản gốc hiện nay không còn nữa).
 
[[Càn Long|Thanh Cao Tông]] cũng rất ngưỡng mộ Lan Đình tập tự. Hai tác phẩm thư pháp của Vương Hi Chi là ''Khoái tuyết tinh thiếp''''Trung thu thiếp'' cùng với ''Bá viễn thiếp'' của Vương Tuân được vua Càn Long xếp vào "Tam hy mặc bảo" (ba vật quý hiếm) và xây dựng Tam hy đường để cất giữ.
 
Các con Vương Hi Chi cũng có nhiều người trở thành nhà thư pháp có danh tiếng thời Đông Tấn, trong đó phải kể đến người con thứ bảy là [[Vương Hiến Chi]]. Hai cha con họ Vương được người đời xưng tụng là "thảo thánh nhị Vương".
Dòng 100:
== Nhận định ==
[[Lương Vũ Đế|Lương Vũ đế]] đánh giá thư pháp của ông như sau:
:''Thế chữ hùng dật như rồng múa ở Thiên Môn, như hổ chầu ở Phượng khuyết, vì vậy là bảo vật của muôn đời, mãi mãi là mẫu mực để người đời học tập.''
 
Theo [[Đường Thái Tông]]:
:''Chữ của Vương Hi Chi tường sát cổ kim, tận thiện tận mỹ.''
 
Các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho rằng thành công của Vương Hi Chi ngoài tài năng, khí chất và sự khổ luyện còn có ảnh hưởng của Huyền học và [[Lão Tử]], [[Trang Tử]] đối với thời đại mà ông sống<ref>Tiêu Lê, Mã Ngọc Chu, Lã Diên Đào, sách đã dẫn, tr 208</ref>.