Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hệ thống giao thông Việt Nam”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 8:
Sau khi hoàn tất cuộc xâm lược Việt Nam về mặt quân sự, đầu năm 1897, người Pháp đã triển khai ngay công cuộc khai thác thuộc địa ở Việt Nam nói riêng cũng như Đông Dương nói chung một cách quy mô. Trong đó người Pháp đã tập trung xây dựng hạ tầng giao thông vận tải lớn ở Việt Nam như: Xây dựng hệ thống bến cảng, đường sắt, đường bộ, sân bay... để phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa. Trong chủ yếu là khai thác mỏ và lập đồn điền trồng cây công nghiệp, vơ vét tài nguyên, của cải, lúa gạo ở đồng bằng Nam bộ và Bắc bộ, vận chuyển ra các cảng biển lớn chở về Pháp. A. Đường sắt, đường bộ xuyên Việt hình thành Song song với cải tạo mở rộng tuyến đường thuộc địa số 1 Bắc – Nam, người Pháp đã triển khai xây dựng tuyến đường sắt, theo công nghệ đường sắt của Pháp với khổ đường ray 1 mét, để vận chuyển hàng hóa.
 
Tuyến đường sắt được khởi công sớm nhất là Sài Gòn –Mỹ Tho (71km) được hoàn thành vào năm 1885. Năm 1902, Pháp xây dựng xong Đường sắt [[Hà Nội]] – [[Đồng Đăng]] và [[Bằng Tường]] Trung Quốc; Năm 1902, Pháp xây dựng xong Đường sắt Hà Nội – Hải Phòng; Năm 1906, Pháp xây dựng xong Đường sắt Hà Nội – [[Lào Cai]] và [[Côn Minh]] - [[Vân Nam]] Trung Quốc; Năm 1931, Pháp xây dựng xong Đường sắt [[Tháp Chàm]] – Đà Lạt; Năm 1933, Pháp xây dựng xong Đường sắt Sài Gòn – Lộc Ninh; Đến năm 1936, người Pháp mới xây dựng xong tuyến Đường sắt Bắc Nam với chiều dài 2600km. Các trục đường bộ song trùng với các tuyến đường sắt này cũng được nâng cấp, trở thành các trục đường liên tỉnh. Đường sătsắt được xây dựng cùng với các cầu thép đi chung đường bộ đường sắt. Ở miền Bắc các tuyến đường thuộc xứ ( Bắc Kỳ ), đi song trùng với các tuyến đường sắt cũng được khai mở. như: [[Quốc lộ 2|Đường 2]], [[Quốc lộ 70|đường 70]] ( Hà Nội - Tuyên Quang- Lao Cai), [[Quốc lộ 3|đường 3]] ( Hà Nội -Thái Nguyên – Cao Bằng), [[Quốc lộ 5|đường 5]] (Hà Nội - Hải Phòng). Đến năm 1931 Việt Nam đã có 2389 km đường sắt. Đến đầu thế kỷ 20, Pháp đã làm được 20.000km đường bộ. Sau, đến năm 1930, Pháp đã mở được 15.000 km đường bộ, trong đó khoảng 2.000 km đường rải nhựa. Hầu hết các cầu được kiên cố, các cầu vượt sông lớn, đều đi chung với đường sắt. Cùng với đó hàng trăm cây cầu kiên cố cũng được xây dựng, trong đó có các cầu lớn như Cầu Bình Lợi (Sài Gòn), cầu Ghềnh ( Đồng Nai), Đà Rằng ( Tuy Hòa), cầu Bạch Hổ ( Huế), cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa), Cầu Long Biên ( Hà Nội)...<ref>[http://hkhktcd.vn/tap-chi-cau-duong/o-to-xe-may/giao-thong-viet-nam-thoi-phap-1890-1945-duong-thuoc-dia-duong-sat-va-cang-song-bien-mo-dau-phat-trien-ha-tang-giao-thong-viet-nam-1605.aspx Giao thông Việt Nam thời Pháp ( 1890 – 1945). Đường thuộc địa, đường sắt và cảng sông, biển mở đầu phát triển hạ tầng giao thông Việt Nam]</ref>
 
Một trong những công trình nổi bật nhất là [[cầu Long Biên]], ban đầu phục vụ cho tuyến đường sắt nối Hà Nội với Hải Phòng, được xem là một trong những công trình lớn nhất thế giới vào đầu thế kỷ XX, đồ sộ nhất và chưa từng có ở vùng Viễn Đông. Toàn quyền Paul Doumer trong hồi ký viết: "''kết quả thu được cho thấy sức mạnh của nền văn minh Pháp. Tiến bộ khoa học, sức mạnh công nghệ của chúng ta đã chinh phục được người dân địa phương, những người từng không khuất phục trước súng đạn (…). Tôi vui mừng chứng kiến Bắc Kỳ trước đó 5 năm còn nghèo khó, run rẩy và lo sợ, giờ trở thành một vùng bình yên, trù phú và tự tin. Được hưởng nhiều tiến bộ hơn những địa phương khác, Hà Nội đã trở thành một thủ đô to đẹp nơi người ta chứng kiến những công trình mới, những ngôi nhà theo kiến trúc Âu châu mọc lên từng ngày. Ngay cả người dân địa phương cũng tham gia vào quá trình thay đổi này với những ngôi nhà xây bằng gạch ngày càng nhiều hơn. Từ năm 1898 đến 1902, toàn Bắc Kỳ, đặc biệt là Hà Nội, vận động không ngừng nghỉ, dân số cũng tăng đáng kể. Nếu như năm 1897 có khoảng 30.000 người ở Hà Nội, thì đến năm 1902 đã có hơn 120.000 người''”<ref>[https://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20161230-cau-long-bien-qua-hoi-ky-cua-toan-quyen-paul-doumer Cầu Long Biên qua hồi ký toàn quyền Paul Doumer]</ref>. Năm 1897, cùng năm khởi công xây cầu ở Hà Nội, toàn quyền Paul Doumer cũng quyết định xây một cầu bắc qua dòng sông Hương (Huế) và một cây cầu khác bắc qua sông Sài Gòn, nối với Biên Hòa. Theo cuốn Thành phố Hà Nội (Ville de Hanoi) do Chính phủ Đông Dương phát hành năm 1905 (Hanoi, Imprimerie G. Taupin et Cie, 1905), một hệ thống xe điện dài 12 km nối trung tâm Hà Nội và vùng ngoại ô được xây dựng...Năm 1930, Hà Nội có 5 tuyến tầu điện, với khoảng 27 km đường sắt, nối từ trung tâm Bờ Hồ với vùng ngoại ô<ref>[https://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20161125-ha-noi-va-noi-nho-tieng-leng-keng-tau-dien-xua Hà Nội và tiếng leng keng tầu điện xưa]</ref>. Những năm 1910-1920, các khoản đầu tư chủ yếu đổ vào phát triển hệ thống đường xá, đầu tiên là tuyến quốc lộ 1 xuyên suốt Việt Nam, sau đó là những tuyến đường khác bắt nguồn từ quốc lộ 1 toảtỏa đi khắp nơi. Theo thống kê năm 1905 thì Đông Dương có khoảng 6 chiếc ô tô (thống kê lập tại Sài Gòn), phần lớn thuộc về người châu Âu và chỉ có một hoặc hai chiếc có lẽ thuộc về người Việt. Thời kỳ đó chủ yếu là xe hơi Pháp, đó là những chiếc Citroen, Peugeot và Renault, ba thương hiệu nổi trội hồi đầu thế kỷ XX. Trong những năm 1920, thị trường xe hơi Pháp mở rộng hơn ở Đông Dương. Thực ra là những chiếc xe hơi của người Pháp mua từ đầu những năm 1900-1910 được bán lại theo dạng xe đã qua sử dụng. Người châu Á địa phương thuộc tầng lớp khá giả mua lại để phục vụ mục đích cá nhân. Ngoài ra, một số người mua lại xe tải hoặc xe có kích thước lớn để biến thành xe chở khách. Cả một nền công nghiệp lớn được hình thành, bắt đầu từ những năm 1910 và phát triển mạnh trong những năm 1920. Có hơn 500 công ty vận tải như thế trên khắp lãnh thổ Đông Dương (Lào, Việt Nam, Cam Bốt), thường do người Việt và người Hoa quản lý. Họ đảm bảo phương tiện giao thông cho người dân địa phương là chủ yếu, vì người Pháp chỉ thích đi xe cá nhân<ref>[https://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20170828-nhung-chiec-xe-hoi-phap-dau-tien-o-viet-nam Những chiếc xe hơi Pháp đầu tiên ở Việt Nam]</ref>.
 
Riêng hệ thống sân bay thời Pháp đến năm 1945, Việt Nam có khoảng 11 sân bay, bao gồm: Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng, Gia Lâm, [[Cát Bi]], Bạch Mai, Đồng Hới, Huế, Nha Trang, Cà Mau, Phan Thiết, Sóc Trăng...Trong đó sân bay Đồng Hới và [[sân bay Tân Sơn Nhất]] được xây dựng vào năm 1930. Sân bay Đà Nẵng được xây dựng năm 1940. Chuyến bay đầu tiên từ Paris đến Sài Gòn ở sân bay Tân Sơn Nhất là vào năm 1933 kéo dài 18 ngày. Năm 1862 mở cửa biển Đà Nẵng, Cam Ranh, cảng Hải Phòng được xây dựng vào năm 1876, cảng Sài Gòn được xây dựng vào năm 1884. Tiếp theo là các cảng [[Bến Thủy]], [[Quy Nhơn]], [[Hòn Gai]], [[Cẩm Phả]]...Trong những năm đầu đã có tàu buôn của các nước Anh, Trung Quốc, Hà Lan đến buôn bán trao đổi hàng hóa và cạnh tranh với người Pháp. Mạng lưới vận tải đường sông của vùng châu thổ sông Hồng, sông Cửu Long và các sông lớn miền Trung cũng được khai thác triệt để. Các cảng sông số lượng tàu thuyền tăng đáng kể, năm 1939 cảng Hà Nội có 5886 tàu thuyền, [[Quảng Yên]] có 5.108 tàu thuyền, cảng [[Mỹ Tho]] có 171 tàu thuyền, cảng [[Nam Định]] có 1.402 tàu thuyền. Riêng tại Nam bộ người Pháp đã sử dụng các sông Mỹ Tho, Vàm Cỏ, Rạch Cát, Mang Thít, Rạch Giá ...để chở lúa gạo. Lực lượng tàu vận tải đường sông tiêu biểu thời đó có các Hãng Sô Va (người Pháp), [[Bạch Thái Bưởi]], Vĩnh Long ( người Việt Nam). Đến đầu thế kỉ XX, đặc biệt là từ sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hoạt động vận tải đường thủy, đặc biệt là vận tải biển được phát triển<ref>[http://hkhktcd.vn/hoi-khoa-hoc-ky-thuat-cau-duong/o-to-xe-may/giao-thong-viet-nam-thoi-phap-1890-1945-duong-thuoc-dia-duong-sat-va-cang-song-bien-mo-dau-phat-trien-ha-tang-giao-thong-viet-nam-1605.aspx Giao thông Việt Nam thời Pháp ( 1890 – 1945). Đường thuộc địa, đường sắt và cảng sông, biển mở đầu phát triển hạ tầng giao thông Việt Nam]</ref>.
Dòng 21:
Hệ thống đường bộ chính tại Việt Nam bao gồm các con đường Quốc lộ và Cao tốc, nối liền các vùng, các tỉnh cũng như đi đến các cửa khẩu quốc tế với [[Trung Quốc]], [[Lào]], [[Campuchia]].
 
Một số tuyến quốc lộ và cao tốc của Việt Nam được chỉ định tham gia mạng lưới đường bộ xuyên Á, đó là: Quốc lộ 1A, 22, cao tốc CT.01 ([[AH.1]]), 2, 5, 70, cao tốc CT.05, cao tốc CT.04 ([[AH14|AH.14]]), 6, 279 ([[AH13|AH.13]]), 8A ([[AH15|AH.15]]), 9A ([[AH16|AH.16]]), đường Hồ Chí Minh, 14B, 13, 51 ([[AH17|AH.17]]), 12A, 12C ([[AH131|AH.131]]), 24, 14, 40 ([[AH132|AH.132]]).
 
===Đường quốc lộ===
Dòng 515:
'''Hệ thống đường cao tốc Việt Nam''' là là một mạng lưới mà các đường cao tốc kéo dài từ bắc đến nam ở Việt Nam. Thuộc [[Hệ thống giao thông Việt Nam#Hệ thống đường bộ|hệ thống giao thông đường bộ ở Việt Nam]].
 
Bắt đầu được xây dựng từ đầu thế kỉ 21 đến nay, '''Hệ thống đường cao tốc ở Việt Nam''' bao gồm các tuyến và đoạn cao tốc riêng lẻ trải dài phân bổ từ Bắc đến Nam liên kết với nhau tạo thành tạo thành đường cao tốc lớn đi từ Bắc đến Nam (ví dụ [[Đường cao tốc Bắc – Nam (Việt Nam)|Đường cao tốc Bắc – Nam]]). Hiện theo tính toán (chưa tính các đoạn đường chưa xác định chính xác quãng đường) thì toàn bộ '''Hệ thống đường cao tốc Việt Nam''' có quãng đường hơn 2000 KMKm.
 
Hệ thống các đường cao tốc Việt Nam bao gồm các đường
Dòng 601:
[[Hình: VietnamCowtownExpress1.jpg|nhỏ|phải|230px|<center>Tàu dừng ở ga Phù Mỹ<br>tỉnh Bình Định]]
[[Tập tin:008 002.jpg.jpg|nhỏ|tàu khách LP5 Long Biên-Hải Phòng]]
Hệ thống [[đường ray|đường sắt]] Việt Nam có tổng [[chiều dài]] khoảng 2600&nbsp;km, trong đó tuyến đường chính nối Hà Nội – Thành phố Hồ Chí Minh (tuyến [[đường sắt Bắc - Nam]] hay [[đường sắt Thống Nhất]]) dài 1726&nbsp;km, toàn ngành có 302 [[Đầu máy xe lửa|đầu máy]], 1063 [[toa tàu]] chở khách và 4986 toa tàu chở hàng.{{fact|date=ngày 7 tháng 1 năm 2013}}
 
===Các tuyến đường sắt từ thủ đô Hà Nội===
Dòng 621:
*Đường sắt Mỹ Thủy - Đông Hà - Lao Bảo kết nối đường sắt cao tốc Savannakhet - Lao Bảo (Quảng Trị) (dự án)
*[[Đường sắt đô thị Hà Nội]]
*[[Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh|Đường sắt đô thị TP. Hồ Chí Minh]] (tuyến [[Tuyến số 1 (Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh)|Metro số 1 Bến Thành - Suối Tiên]] đang trong giai đoạn hoàn thành), (tuyến [[Tuyến số 2 (Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh)|Metro số 2 Bến Thành - Tham Lương]] dự kiến sẽ được xây dựng).
 
Đường sắt Việt Nam hiện gồm có hai loại đội [[tàu hỏa]] là:
Dòng 633:
{{Chính|Cảng sông Việt Nam}}{{Chính|Hệ thống đường sông Việt Nam}}
 
Các tuyến đường thủy nội địa dựa theo các con sông chính như: [[sông Hồng]], [[sông Đà]] ở [[Miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc]]; [[sông Tiền]], [[sông Hậu]] ở miền [[Đồng bằng sông Cửu Long|Tây Nam Bộ]] và [[sông Đồng Nai]], [[sông Sài Gòn]] ở miền [[Đông Nam Bộ (Việt Nam)|Đông Nam Bộ]]. Tổng [[chiều dài]] của tất cả các loại sông, kênh, rạch trên lãnh thổ Việt Nam khoảng 42.000&nbsp;km, dài nhất là hai con sông: sông Hồng với khoảng 541&nbsp;km và sông Đà khoảng 543&nbsp;km. Sông Hậu là con sông có khúc rộng nhất ở huyện [[Long Phú]] (Sóc Trăng) và [[Cầu Kè]] (Trà Vinh) với chiều ngang khoảng gần 4&nbsp;km.
 
*[[Sông Đà]] chảy qua các tỉnh [[Lai Châu]], [[Điện Biên]], [[Sơn La]], [[Hòa Bình]], [[Phú Thọ]], [[Hà TâyNội]] và giao nhau với [[sông Hồng]] tại [[Việt Trì]](Phú Thọ)
*[[Sông Hồng]] chảy qua các tỉnh [[Lào Cai]], [[Yên Bái]], [[Phú Thọ]], [[Vĩnh Phúc]], [[Hà Tây]], [[Hà Nội]], [[Hưng Yên]], [[Hà Nam]], [[Thái Bình]], [[Nam Định]]
*[[Sông Tiền]] chảy qua các tỉnh [[An Giang]], [[Đồng Tháp]], [[Vĩnh Long]], [[Tiền Giang]], [[Bến Tre]]
*[[Sông Hậu]] chảy qua các tỉnh [[An Giang]], [[Cần Thơ]], [[Đồng Tháp]], [[Vĩnh Long]], [[Hậu Giang]], [[Trà Vinh]], [[Sóc Trăng]]
Dòng 646:
*Khu vực phía Nam: Cảng hàng hóa: gồm 56 cảng, công suất quy hoạch đến năm 2020 là 32,6 triệu tấn/năm (trong đó có 11 cảng chính, công suất quy hoạch đến năm 2020 là 10,9 triệu tấn/năm và 45 cảng khác có công suất quy hoạch đến năm 2020 là 21,7 triệu tấn/năm). Cảng hành khách: gồm 17 cảng, công suất quy hoạch đến năm 2020 là 29 triệu lượt hành khách/năm
 
Hệ thống đường thủy Việt Nam hiện đang đảm nhiệm 30% tổng lượng hàng hóa lưu chuyển trong nước, riêng khu vực [[Đồng bằng sông Cửu Long]] đảm nhiệm tới 70% lưu thông hàng hóa trong vùng. Các cảng biển chính hiện nay gồm: [[cảng Hải Phòng]], [[cảng Cái Lân]] ở miền Bắc, [[cảng Tiên Sa]], [[cảng Quy Nhơn]] ở miền Trung và [[cảng Sài Gòn]], [[cảng Cát Lái]] ở miền Nam. Năm 2007, tổng khối lượng hàng hoáhóa thông qua các cảng tại Việt Nam là 177 triệu tấn, trong đó hệ thống cảng Sài Gòn là 55 triệu tấn. Theo dự báo, dự báo lượng hàng hóa qua hệ thống cảng biển Việt Nam vào năm 2010 sẽ đạt 230-250 triệu tấn/năm và 500-550 triệu tấn/năm vào năm 2020<ref>{{Chú thích web |url=http://www.sggp.org.vn/dautukt/2008/2/142752/ |tiêu đề=Từ nay đến 2010, cần 4 - 5 tỷ USD đầu tư phát triển cảng biển |nhà xuất bản=Báo Sài Gòn Giải phóng |ngày tháng=12 tháng 2 năm 2008 |ngày truy cập=21 tháng 3 năm 2008}}</ref>.
 
Theo Quyết định số 2190/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2009, theo quy hoạch các cảng tổng hợp quốc gia là các cảng chính trong hệ thống cảng biển Việt Nam, bao gồm:
Dòng 664:
Còn lại, các hãng khác đều khai thác đường bay quốc tế. Riêng Vietnam Airlines có các đường bay xuyên lục địa mà đáng chú ý là đường bay thẳng đến [[Mỹ]] và các nước châu Âu,....
*Các đường bay quốc tế do Vietnam Airlines và các hãng hàng không khác có hoạt động tại Việt Nam chuyên chở, xuất phát từ 2 sân bay Tân Sơn Nhất, Nội Bài:
**Các đường bay đi [[Châu Á]] gồm: Hà Nội - [[Thành Đô]], Thành phố Hồ Chí Minh - Thành Đô, Hà Nội - [[Côn Minh]], Hà Nội - [[Nam Ninh]], Thành phố Hồ Chí Minh - Nam Ninh, Hà Nội - [[Quảng Châu]], Thành phố Hồ Chí Minh - Quảng Châu, Hà Nội - [[Thượng Hải]], Thành phố Hồ Chí Minh - Thượng Hải, Hà Nội - [[Bắc Kinh]], Hà Nội - [[Seoul]], Thành phố Hồ Chí Minh - Seoul, Hà Nội - [[Busan]], Thành phố Hồ Chí Minh - Busan, Hà Nội - [[Đài Bắc]], Thành phố Hồ Chí Minh - Đài Bắc, Hà Nội - [[Cao Hùng]], Thành phố Hồ Chí Minh - Cao Hùng, Hà Nội - [[Hồng Kông]], Thành phố Hồ Chí Minh - Hồng Kông, Hà Nội - [[Tokyo]], Thành phố Hồ Chí Minh - Tokyo, Hà Nội - [[Nagoya]], Thành phố Hồ Chí Minh - Nagoya, Hà Nội - [[Osaka]], Thành phố Hồ Chí Minh - Osaka, Hà Nội - [[Yangon]], Thành phố Hồ Chí Minh - Yangon, Hà Nội - [[Bangkok]], Thành phố Hồ Chí Minh - Bangkok, Hà Nội - [[Viêng Chăn]], Thành phố Hồ Chí Minh - Viêng Chăn, Hà Nội - [[Luang Prabang]], Hà Nội - [[Phnôm Pênh]], Thành phố Hồ Chí Minh - Phnôm Pênh, Hà Nội - [[Xiêm Riệp]], Thành phố Hồ Chí Minh - Xiêm Riệp, Hà Nội - [[Kuala Lumpur]], Thành phố Hồ Chí Minh - Kuala Lumpur, Hà Nội - [[Singapore]], Thành phố Hồ Chí Minh - Singapore, Thành phố Hồ Chí Minh - [[Doha]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Abu Dhabi]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Dubai]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Almaty]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Mumbai]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Ma Cao]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Thâm Quyến]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Phúc Châu]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Vũ Hán]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Đài Trung]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Fukuoka]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Pakse]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Sihanoukville (tỉnh)|Sihanoukville]], Thành phố Hồ Chí Minh – [[Manila]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Jakarta]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Bandar Seri Begawan]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Johor Bahru]]
**Các đường bay đi [[Châu Âu]] gồm: Hà Nội - [[Luân Đôn|London]], Thành phố Hồ Chí Minh - London, Hà Nội - [[Paris]], Thành phố Hồ Chí Minh - Paris, Hà Nội - [[Frankfurt am Main|Frankfurt]], Thành phố Hồ Chí Minh - Frankfurt, Hà Nội - [[Moskva]], Thành phố Hồ Chí Minh - Moskva, Thành phố Hồ Chí Minh - [[Helsinki]], Thành phố Hồ Chí Minh - [[Istanbul]]
**Các đường bay đi [[Châu Phi]] gồm: Hà Nội - [[Nairobi]]
Dòng 671:
*Các đường bay nội địa do Vietnam Airlines, Jetstar Pacific, Vasco chuyên chở kết nối các điểm: [[Hà Nội]], [[Thành phố Hồ Chí Minh]], [[Đà Nẵng]], [[Đồng Hới]], [[Hải Phòng]], [[Thọ Xuân]], [[Vinh]], [[Điện Biên Phủ]], [[Huế]], [[Quy Nhơn]], [[Khánh Hòa]], [[Tuy Hòa]], [[Sân bay Chu Lai|Chu Lai]], [[Pleiku]], [[Buôn Ma Thuột]], [[Đà Lạt]], [[Cà Mau]], [[Rạch Giá]], [[Phú Quốc]], [[Côn Đảo]], [[Cần Thơ]]
 
Việt Nam hiện nay có tổng cộng 22 [[sân bay]] các loại có bãi đáp hoàn thiện, trong đó có 8 sân bay có [[đường băng]] dài trên 3.000 m có khả năng đón được các [[máy bay]] loại cỡ trung trở lên như [[Airbus A320]], [[Airbus A320#A321|Airbus A321]], [[Airbus A350]], [[Boeing 787]],...Việt Nam hiện có 11 sân bay quốc tế còn hoạt động.{{fact|date=ngày 7 tháng 1 năm 2013}}
Việt Nam hiện có 11 sân bay quốc tế còn hoạt động.
{{fact|date=ngày 7 tháng 1 năm 2013}}
 
==Phương tiện giao thông đường bộ==
Hàng 733 ⟶ 731:
Tính vào thời điểm năm 2013 thì mỗi năm có khoảng 10.000 vụ tử thương vì giao thông và thêm gần 40.000 bị chấn thương.<ref name="Bệnh viện quá tải theo BBC">[https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2013/10/131015_benh_vien_qua_tai.shtml Bệnh viện quá tải vì đâu?] Nguyễn Quảng [[BBC]] 15 tháng 10 năm 2013</ref>.
 
Vào thời điểm ngày 01/01/2020 khi mà [[luật phòng chống tác hại của rượu, bia]] được thi hành thì số tai nạn giao thông giảm hơn đáng kể. Theo thống kê của Văn phòng Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia (từ ngày 15.2.2020 đến 14.3.2020) cả nước xảy ra 1.101 vụ, làm chết 514 người và làm bị thương 788 người. So với tháng cùng kỳ năm 2019 giảm 107 vụ (giảm 8,86%), giảm 35 người chết (giảm 6,38%), giảm 184 người bị thương (giảm 18,93%). Trong đó, lĩnh vực đường bộ để xảy ra 603 vụ, làm chết 496 người và bị thương 312 người; Đường sắt, xảy ra 7 vụ, làm chết 5 người, bị thương 2 người; Đường thuỷthủy, xảy 9 vụ, làm chết 12 người, bị thương 1 người. Cùng đó, lực lượng CSGT trên cả nước đã xử lý được 223.914 trường hợp vi phạm (trong đó có 15.380 trường hợp vi phạm nồng độ cồn), phạt hành chính hơn 227,56 tỉ đồng và tạm giữ 43.483 phương tiện.
 
==Quản lý và tổ chức giao thông==
Hàng 744 ⟶ 742:
|ngày= 15 tháng 8 năm 2012
|ngày truy cập= 16 tháng 5 năm 2013}}
</ref><ref name=bdv1>{{chú thích báo
</ref>
<ref name=bdv1>{{chú thích báo
|tác giả= Anh Trọng
|tác phẩm= Báo Đất Việt điện tử
Hàng 784 ⟶ 781:
}}</ref>
 
Tháng 11 năm 2011, bộ trưởng [[Đinh La Thăng]] đã đề nghị [[Quốc hội Việt Nam]] bố trí khoản ngân sách 40.000 tỷ đồng, thu vượt từ dầu thô, cho các công trình trọng yếu của ngành giao thông vì "''Hiện Bộ GTVT không còn tiền để đầu tư hạ tầng''".<ref name="hettien">{{Chú thích báo | tác giả= | url=http://vtc.vn/1-317266/kinh-te/bo-truong-thang-day-kho-va-luc-tui-dan.htm | tên bài=Bộ trưởng Thăng 'đẩy khó' và 'lục túi' dân? | nhà xuất bản=VTC dẫn lại Tuanvietnam.net | ngày=8 tháng 1 năm 2012 | ngày truy cập=23 tháng 11 năm 2012}}</ref> Để tránh ùn tắc giao thông và quá tải của đường phố, cùng với việc đổi giờ làm việc và giờ học, ông Thăng còn đề xuất hạn chế xe cá nhân và tăng phí lưu thông ô tô và [[xe máy]], như thâu phí lưu thông xe máy 500.000 đến 1 triệu đồng/năm và phí lưu thông [[ô tô]] từ 20 dếnđến 50 triệu đồng/năm.<ref>{{Chú thích báo|url=https://web.archive.org/web/20111102060948/http://laodong.com.vn/Tin-tuc/Cam-xe-may-tang-chi-phi-su-dung-o-to-de-giam-un-tac/60423|title=|last=|first=|date=|work=|access-date=|tác giả=|tên bài=Cấm xe máy, tăng chi phí sử dụng ô tô để giảm ùn tắc|nhà xuất bản=Lao động|ngày=|ngày truy cập=}}{{dead link}}</ref><ref name="tt1">{{Chú thích báo | tác giả=Lê Việt | url=http://vtc.vn/31-316590/oto-xe-may/bo-truong-thang-tran-tinh-ve-tang-phi-luu-hanh-o-to.htm | tên bài=Bộ trưởng Thăng trần tình về tăng phí lưu hành ô tô | nhà xuất bản=VTC News | ngày=4 tháng 1 năm 2012 | ngày truy cập=23 tháng 11 năm 2012}}</ref> Theo ông thì "việc thu phí lưu hành để sử dụng vào nhiều mục đích, nên người sử dụng phương tiện cá nhân phải có đóng góp cho đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, và thực hiện các giải pháp giảm tai nạn giao thông. Nhiều ý kiến cho rằng việc đề xuất tăng phí lưu hành xe ô tô lên 20–50 triệu đồng/năm của Bộ trưởng Thăng và Chính phủ là "đổ gánh nặng sang dân", "cào bằng giàu - nghèo", "phí chồng lên phí",...<ref>{{Chú thích báo | tác giả=Thế Kha | url=http://nld.com.vn/20120101113929939p0c1002/de-xuat-thu-phi-mo-to-xe-may-them-ganh-nang-cho-nguoi-dan.htm | tên bài=Đề xuất thu phí mô tô, xe máy: Thêm gánh nặng cho người dân | nhà xuất bản=Người lao động | ngày=2 tháng 1 năm 2012 | ngày truy cập=23 tháng 11 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích báo | tác giả=Phương Linh | url=http://phapluatxahoi.vn/20120106082556507p1001c1053/phi-chong-len-phi.htm | tên bài=Phí chồng lên...phí | nhà xuất bản=Pháp luật Xã hội | ngày=6 tháng 1 năm 2012 | ngày truy cập=23 tháng 11 năm 2012 | title=Bản sao đã lưu trữ | access-date=2014-05-08 | archive-date=2014-05-08 | archive-url=https://web.archive.org/web/20140508223513/http://phapluatxahoi.vn/20120106082556507p1001c1053/phi-chong-len-phi.htm }}</ref><ref>{{Chú thích báo | tác giả=Hà Linh (tổng hợp) | url=http://vtc.vn/4-316488/kinh-doanh/thuong-truong/de-xuat-tang-phi-o-to-dung-do-ganh-nang-sang-dan.htm | tên bài=Đừng đổ gánh nặng sang dân! | nhà xuất bản=VTC News | ngày=3 tháng 1 năm 2012 | ngày truy cập=23 tháng 11 năm 2012}}</ref>
<ref>{{Chú thích báo|url=https://web.archive.org/web/20111102060948/http://laodong.com.vn/Tin-tuc/Cam-xe-may-tang-chi-phi-su-dung-o-to-de-giam-un-tac/60423|title=|last=|first=|date=|work=|access-date=|tác giả=|tên bài=Cấm xe máy, tăng chi phí sử dụng ô tô để giảm ùn tắc|nhà xuất bản=Lao động|ngày=|ngày truy cập=}}{{dead link}}</ref><ref name="tt1">{{Chú thích báo | tác giả=Lê Việt | url=http://vtc.vn/31-316590/oto-xe-may/bo-truong-thang-tran-tinh-ve-tang-phi-luu-hanh-o-to.htm | tên bài=Bộ trưởng Thăng trần tình về tăng phí lưu hành ô tô | nhà xuất bản=VTC News | ngày=4 tháng 1 năm 2012 | ngày truy cập=23 tháng 11 năm 2012}}</ref> Theo ông thì "việc thu phí lưu hành để sử dụng vào nhiều mục đích, nên người sử dụng phương tiện cá nhân phải có đóng góp cho đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, và thực hiện các giải pháp giảm tai nạn giao thông. Nhiều ý kiến cho rằng việc đề xuất tăng phí lưu hành xe ô tô lên 20–50 triệu đồng/năm của Bộ trưởng Thăng và Chính phủ là "đổ gánh nặng sang dân", "cào bằng giàu - nghèo", "phí chồng lên phí",...
<ref>{{Chú thích báo | tác giả=Thế Kha | url=http://nld.com.vn/20120101113929939p0c1002/de-xuat-thu-phi-mo-to-xe-may-them-ganh-nang-cho-nguoi-dan.htm | tên bài=Đề xuất thu phí mô tô, xe máy: Thêm gánh nặng cho người dân | nhà xuất bản=Người lao động | ngày=2 tháng 1 năm 2012 | ngày truy cập=23 tháng 11 năm 2012}}</ref><ref>{{Chú thích báo | tác giả=Phương Linh | url=http://phapluatxahoi.vn/20120106082556507p1001c1053/phi-chong-len-phi.htm | tên bài=Phí chồng lên...phí | nhà xuất bản=Pháp luật Xã hội | ngày=6 tháng 1 năm 2012 | ngày truy cập=23 tháng 11 năm 2012 | title=Bản sao đã lưu trữ | access-date=2014-05-08 | archive-date=2014-05-08 | archive-url=https://web.archive.org/web/20140508223513/http://phapluatxahoi.vn/20120106082556507p1001c1053/phi-chong-len-phi.htm }}</ref><ref>{{Chú thích báo | tác giả=Hà Linh (tổng hợp) | url=http://vtc.vn/4-316488/kinh-doanh/thuong-truong/de-xuat-tang-phi-o-to-dung-do-ganh-nang-sang-dan.htm | tên bài=Đừng đổ gánh nặng sang dân! | nhà xuất bản=VTC News | ngày=3 tháng 1 năm 2012 | ngày truy cập=23 tháng 11 năm 2012}}</ref>
 
==Hình ảnh==