Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cleveland (lớp tàu tuần dương)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 86:
Có tổng cộng 52 chiếc thuộc lớp này đã được vạch kế hoạch và 3 chiếc bị hủy bỏ. Chín chiếc đã được đặt hàng lại như những [[tàu sân bay hạng nhẹ]] [[Independence (lớp tàu sân bay)|lớp ''Independence'']], và 13 chiếc được thay đổi (nhưng chỉ có hai chiếc hoàn tất) sang một thiết kế hơi khác biệt, với một cấu trúc thượng tầng gọn gàng hơn và một ống khói duy nhất, được biết đến như là [[Fargo (lớp tàu tuần dương)|lớp tàu tuần dương ''Fargo'']]. Trong số 27 chiếc lớp ''Cleveland'' được đưa vào hoạt động, một chiếc ([[USS Galveston (CLG-3)|''USS Galveston'']]) được hoàn tất như một [[tàu tuần dương tên lửa điều khiển]] và năm chiếc sau đó được cải biến thành những chiếc loại này thuộc các lớp [[Galveston (lớp tàu tuần dương)|''Galveston'']] và [[Providence (lớp tàu tuần dương)|''Providence'']]; hai trong mỗi lớp tàu tuần dương tên lửa điều khiển này có phần cấu trúc thượng tầng được mở rộng để phục vụ trong vai trò [[soái hạm]]. Theo thông lệ về cách đặt tên tàu chiến của Hải quân Mỹ vào lúc đó, tất cả các con tàu đều được đặt tên theo những thành phố của Hoa Kỳ.{{sfn|Whitley|1996}}
 
== HoạtPhục độngvụ ==
Các conLớp tàu chủtuần yếudương được''Cleveland'' sửđã dụngphục vụ chủ yếu tại [[ChiếnMặt tranhtrận Thái Bình Dương|Thái Bình Dương]] trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Chiến tranh Thế giới thứ hai]], đặc biệt là cùng các đội đặc nhiệm tàu sân bay nhanh; nhưng một số cũng đã hoạt động tại [[Châu Âu]] và ngoài[[Bắc khơiPhi]] bờtrong biểnthành phần [[ChâuHạm Phiđội Đại Tây Dương Hoa Kỳ|Hạm đội Đại Tây Dương]];. Cho dù đã hoạt động tích cực và một số bị hư hại, tất cả đều đã sống sót qua chiến tranh. Cho đến năm [[1950]], tất cả đều được cho ngừngxuất hoạtbiên độngchế, ngoại trừ [[{{USS |Manchester (|CL-83)|''Manchester'']]2}} được giữ lại phục vụ cho đến năm [[1956]]. Sáu chiếc sau đó được hoàn tất hay cải biến thành tàu tuần dương tên lửa điều khiển. Lớp ''Cleveland'' tiếp tục bị ảnh hưởng của trọng lượng nặng đầu do vũ khí phòng không và radar được chobổ sung trong chiến tranh; không có chiếc tàu tái hoạtngũ độngtrong vàocuộc giữa[[Chiến nhữngtranh nămTriều Tiên]]; chúng đòi hỏi một thành phần thủy thủ đoàn gần bằng một chiếc [[thậpBaltimore niên(lớp 1950tàu tuần dương)|1950lớp ''Baltimore'']], nên nghỉnhững hưuchiếc vàonày được huy động thay thế. Những chiếc không cải biến bắt đầu nhữngđược bán để tháo dỡ từ năm [[thập niên 1970|19701959]].
 
Những chiếc được hoàn tất hay cải biến thành tàu tuần dương tên lửa điều khiển tái biên chế vào giữa những năm [[thập niên 1950|1950]] và nghỉ hưu vào đầu những năm [[thập niên 1970|1970]]. Tất cả, đặc biệt là những chiếc trang bị tên lửa phòng không [[RIM-8 Talos|Talos]], lại phải chịu đựng vấn đề trọng lượng nặng đầu nặng nề hơn thiết kế ban đầu do những thiết bị radar bổ sung. Vấn đề đặc biệt nghiêm trọng đối với chiếc ''Galveston'', khiến nó buộc phải xuất biên chế sớm vào năm [[1970]]. {{USS|Oklahoma City|CL-91|2}} và {{USS|Little Rock|CL-92|2}} đã cần có những đồ dằn trong lườn tàu và thay đổi cách sắp xếp bên trong để cho phép chúng tiếp tục phục vụ trong [[thập niên 1970]]. Chiếc cuối cùng, ''Oklahoma City'', được cho xuất biên chế vào [[tháng 12]], [[1979]].
 
=== Tàu được bảo tồn ===
Chỉ có một chiếc trong lớp ''Cleveland'' được giữ lại, [[USS Little Rock (CL-92)|''Little Rock'']], hiện là một [[tàu bảo tàng]] tại [[Buffalo, New York]].
{{clear}}