Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Án lệ 43/2021/AL”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 23:
'''''Án lệ 43/2021/AL''''' là án lệ công bố thứ 43 của [[Tòa án nhân dân tối cao (Việt Nam)|Tòa án nhân dân tối cao]] tại Việt Nam, được [[Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao]] thông qua, [[Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (Việt Nam)|Chánh án Tối cao]] [[Nguyễn Hòa Bình]] ra quyết định công bố ngày 12 tháng 03<ref>Chánh án Tối cao Nguyễn Hòa Bình, Quyết định 42/2021/QĐ-CA về việc công bố án lệ năm 2021.</ref> và có hiệu lực cho tòa án các cấp trong cả nước nghiên cứu, áp dụng trong xét xử từ ngày 15 tháng 04 năm 2021.<ref>Chánh án Tối cao Nguyễn Hòa Bình, Quyết định 42/2021/QĐ-CA về việc công bố án lệ năm 2021; Điều 2 Quyết định về thời điểm áp dụng xét xử.</ref> Án lệ 43 dựa trên nguồn là Quyết định giám đốc thẩm số 01 ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh thương mại tranh chấp hợp đồng tín dụng tại [[Thành phố Hồ Chí Minh]],<ref>Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Quyết định giám đốc thẩm số 01/2019/KDTM-GĐT ngày 11 tháng 01 năm 2019.</ref> nội dung xoay quanh dân sự chủ yếu về thế chấp tài sản, bao gồm hợp đồng chuyển nhượng, việc cấp giấy chứng nhận và vấn đề hủy hợp đồng đối với quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở; thanh toán hết tiền mua nhà đất; hợp đồng và đăng ký thế chấp. Đây là án lệ do Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.
 
Trong vụ việc, nguyên đơn là Ngân hàng thương mại Agribank chi nhánh quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh có giao kết hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp với bị đơn Nguyễn Thị L về việc cho vay tín dụng; bị đơn đã sử dụng hai mảnh đất, nhà làm tài sản thế chấp. Bên cạnh đó, hai mảnh đất là giao dịch giữa bị đơn và bên thứ ba. Trong những năm 2010, bị đơn đã không hoàn thành việc trả nợ cho Agribank, đồng thời cũng chưa thanh toán toàn bộ tiền sang nhượng nhất cho bên thứ ba. Từ đây, tranh chấp diễn ra trên hai khía cạnh, nguyên đơn thống kê số nợ mà bị đơn phải trả, theo xu hướng phát mãimại tài sản thừa kế để thanh toán nợ; bên thứ ba yêu cầu đòi lại quyền sở hữu nhà, sử dụng đất đối với các mảnh đất mà bị đơn thế chấp. Nguyên đơn thắng kiện, vụ án được chọn làm nguồn án lệ để xem xét hiệu lực của hợp đồng thế chấp trong trường hợp tài sản thế chấp là nhà đất, cùng lĩnh vực với [[án lệ 36/2020/AL]].{{sfn|Án lệ 43/2021/AL|2021|p=1|loc=}}
 
== Tóm lược vụ án ==
Dòng 38:
Tại đơn khởi kiện và các lời khai tại Tòa án, Luật sư E đại diện Agribank trình bày rằng: Ngân hàng cho bà L – Chủ Doanh nghiệp tư nhân Thương mại dịch vụ Nguyễn Tấn Đ vay tổng cộng 8,0 tỷ đồng theo hợp đồng tín dụng và phụ lục sửa đổi;<ref>Bút lục vụ án: Agribank, Nguyễn Thị L, Hợp đồng tín dụng số 6360-LAV-200900957 ngày 04 tháng 12 năm 2009; phụ lục hợp đồng sửa đổi hợp đồng tín dụng số 01/PL/BS/HĐTD ngày 04 tháng 12 năm 2009.</ref> cùng với đó là hai giấy nhận nợ với số tiền vay 7,75 tỷ đồng cùng 250 triệu đồng; lãi suất trong hạn là 12%/năm, lãi suất quá hạn 150% lãi suất trong hạn, thời hạn vay 12 tháng. Sau đó, hai bên đã ký phụ lục hợp đồng tín dụng ngày 15 tháng 12 năm 2010 về việc thỏa thuận điều chỉnh lãi suất vay trong hạn là 16%/năm.<ref>Bút lục vụ án, Phụ lục hợp đồng tín dụng số 6360-LAV-200900957/PLHĐ ngày 15 tháng 12 năm 2010.</ref> Tài sản bảo đảm cho khoản vay trên gồm quyền sử dụng 298,3 m² đất và nhà ở thuộc thửa đất số 7, tờ bản đồ số 93 tại số 26Đ;<ref>Bút lục vụ án: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 7332/2008/UB.GCN do Ủy ban nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 07 tháng 11 năm 2008.</ref> quyền sử dụng 113,16 m² đất và nhà ở thuộc thửa đất số 82, MPT 79, tờ bản đồ số 89 tọa lạc tại số 20/2T,<ref>Bút lục vụ án: Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 7331/2008/UB.GCN do Ủy ban nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 07 tháng 11 năm 2008.</ref> đều ở phường [[Tân Quý]], quận [[Tân Phú (quận)|Tân Phú]], Thành phố Hồ Chí Minh.
 
Ngày 01 tháng 12 năm 2009, bà L đã thế chấp các tài sản trên theo hợp đồng thế chấp tài sản đã được công chứng và đăng ký tài sản thế chấp theo quy định của pháp luật.<ref>Bút lục vụ án: Agribank, Nguyễn Thị L, Hợp đồng thế chấp tài sản số 6360- LCP-2009-00949 ngày 01 tháng 12 năm 2009.</ref> Ngân hàng đã giải ngân cho bà L với tổng số tiền là 8,0 tỷ đồng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, bà L không thanh toán đầy đủ, đến hạn bà L chỉ trả lãi trong hạn vào ngày 12 tháng 05 năm 2010, nên Ngân hàng đã chuyển nợ quá hạn cho hợp đồng tín dụng và các phụ lục hợp đồng. Ngân hàng khởi kiện yêu cầu bà L phải thanh toán số tiền còn nợ tính đến ngày 07 tháng 12 năm 2012 là 14.780.416.666 đồng, trong đó nợ gốc tám tỷ đồng, nợ lãi trong hạn 2.879.083.333 đồng, lãi quá hạn 3.901.333.333 đồng. Agribank đề nghị rằng nếu bà L không trả được nợ thì yêu cầu phát mãimại tài sản thế chấp để thu hồi nợ.<ref>Ngân hàng Agribank chi nhánh Bến Thành, Thành phố Hồ Chí Minh, đơn khởi kiện đề ngày 01 tháng 03 năm 2011.</ref>
 
==== Bị đơn ====
Bị đơn là bà L trình bày rằng bà thừa nhận đã ký hợp đồng tín dụng, các phụ lục hợp đồng, giấy nhận nợ, đồng thời xác nhận số tiền còn nợ Agribank tính đến ngày 07 tháng 12 năm 2012 là 14.780.416.666 đồng như trình bày của nguyên đơn. Bà cam kết thanh toán cho nguyên đơn số tiền còn nợ và tiền lãi phát sinh trong vòng 30 ngày kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật; nếu không thanh toán được, bà đồng ý phát mãimại các tài sản thế chấp để [[Agribank]] thu hồi nợ. Tuy nhiên, hai căn nhà đang thế chấp tại Agribank do bà mua của vợ chồng Dương Quốc K, Phạm Thị Kim H vào năm 2008 với giá 5,5 tỷ đồng. Bà đã thanh toán được ba tỷ đồng, còn nợ ông K, bà H số tiền 2,5 tỷ đồng. Hai bên đã làm thủ tục mua bán đầy đủ theo quy định của pháp luật và bà đã đứng tên chủ quyền trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đối với các nhà đất nêu trên. Ông K, bà H vẫn đang quản lý sử dụng hai căn nhà này vì hai bên chưa thực hiện việc giao nhận nhà. Cuối năm 2010, ông K, bà H đã có đơn khởi kiện yêu cầu bà thanh toán số tiền nợ nêu trên, nếu bà không trả được thì sẽ đòi lại nhà, sự việc đang được [[Tòa án nhân dân quận Tân Phú]] giải quyết.{{sfn|Án lệ 43/2021/AL|2021|p=3|loc=}}
 
==== Bên thứ ba ====
Dòng 49:
 
==== Sơ thẩm ====
Ngày 19 tháng 03 năm 2003, tại số 131 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường [[Bến Thành (phường)|Bến Thành]], [[Quận 1]], Thành phố Hồ Chí Minh, phiên xét xử sơ thẩm ra phán quyết sau nhiều phiên đã diễn ra. [[Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh]] đã quyết định về vụ án dân sự này, rằng: Tòa chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn có trách nhiệm thanh toán cho Agribank tổng số nợ tính đến ngày 19 tháng 03 năm 2013 là 13.367.083.333 đồng, trong đó nợ vốn vay 8,0 tỷ đồng, lãi trong hạn 921,750 triệu đồng, lãi quá hạn 4.445.333.333 đồng và tiền lãi phát sinh từ ngày 20 tháng 03 năm 2013 cho đến ngày trả hết vốn vay theo mức lãi suất nợ quá hạn 24%/năm.<ref group="Ghi chú">Theo thỏa thuận phụ lục hợp đồng, phần lãi quá hạn là 150% lãi trong hạn (16%), tức gấp 1,5 lần 16%, là 24%.</ref> Thời hạn thanh toán trong vòng sáu tháng sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. Quá hạn mà bị đơn không thanh toán hoặc không thanh toán đầy đủ thì nguyên đơn được quyền yêu cầu phát mãimại tài sản đã thế chấp là hai nhà đất của bị đơn để thu hồi nợ.<ref>Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 287/2013/KDTM-ST ngày 19 tháng 03 năm 2013.</ref>
 
==== Phúc thẩm ====
Dòng 63:
{{Quote box|align=right|width=24em|salign=right|quote=Như vậy, hai nhà đất trên thuộc quyền sở hữu của bị đơn, nên bị đơn có quyền dùng hai nhà đất này thế chấp cho ngân hàng để vay tiền; bên thứ ba cũng biết và đồng ý cho bị đơn thế chấp nhà đất trên với ngân hàng. Hợp đồng thế chấp đã được công chứng, đăng ký thế chấp và đăng ký giao dịch bảo đảm hợp pháp nên có hiệu lực pháp luật. Bên thứ ba cho rằng bị đơn chưa trả đủ tiền mua nhà đất, lấy việc bị đơn còn nợ làm cơ sở yêu cầu hủy hợp đồng mua bán nhà, trả lại khoản tiền đã nhận cho bị đơn là không có cơ sở. Nếu bị đơn không trả đủ số tiền mua nhà đất còn thiếu, bên thứ ba có quyền khởi kiện một vụ án khác để yêu cầu bị đơn thanh toán khoản tiền này.|source=Nhận định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Quyết định 01/2019/KDTM-GĐT.{{sfn|Án lệ 43/2021/AL|2021|p=5|loc=}}}}Trong phiên giám đốc thẩm, Hội đồng Thẩm phán có những nhận định về vụ án. Về số tiền nợ gốc và nợ lãi giữa nguyên đơn và bị đơn, các bên đều thống nhất và không có tranh chấp. Như bản án sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc bị đơn có trách nhiệm thanh toán cho nguyên đơn tổng số nợ và lãi suất nợ quá hạn 24%/năm là đúng theo thỏa thuận giữa các bên.<ref group="Ghi chú">Theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam 2015 (có hiệu lực trong thời điểm diễn ra phiên giám đốc thẩm) thì lãi suất tối đa là 20% trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, vụ án phát sinh lúc Bộ luật Dân sụ 2015 chưa ra đời, cho nên vẫn tôn trọng thỏa thuận cũ.</ref> Tòa án cấp phúc thẩm tuyên buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn tổng cộng là 13.367.083.333 đồng và tiếp tục tính lãi theo mức lãi suất quá hạn từng thời điểm theo hợp đồng đã ký kết là không đúng vì hợp đồng tín dụng và các phụ lục hợp đồng tín dụng giữa hai bên không quy định việc điều chỉnh lãi.
 
Về xử lý tài sản thế chấp, theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án xác định tài sản thế chấp là hai nhà đất của bị đơn nhận chuyển nhượng của bên thứ ba theo các hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã được công chứng, bị đơn đã được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở.{{sfn|Bộ luật Dân sự|2005|p=|loc=Điều 168|ps=: Thời điểm chuyển quyền sở hữu đối với tài sản.}}{{sfn|Bộ luật Dân sự|2005|p=|loc=Điều 439|ps=: Thời điểm chuyển quyền sở hữu.}} Tòa án cấp sơ thẩm quyết định nguyên đơn được quyền yêu cầu phát mãimại tài sản là hai nhà đất nêu trên của bà L để thu hồi nợ khi bà L không thanh toán hoặc thanh toán không đầy đủ trong thời hạn sáu tháng kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật là có căn cứ, đúng pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp tài sản giữa hai bên đối với căn nhà số 26Đ và căn nhà số 20/2T là không đúng, ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn. Vì vậy, kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao tuyên hủy bản án kinh doanh thương mại của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có cơ sở, phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao.<ref group="Ghi chú">Căn cứ pháp luật là các điều 168, 323, 342, 425, 438, 689 Bộ luật Dân sự năm 2005 (tương ứng với các điều 161, 298, 318, 423, 440, 502 Bộ luật Dân sự năm 2015); các điều 439, 692 Bộ luật Dân sự năm 2005; Điều 10 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm.</ref>
 
=== Quyết định ===