Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyên Sa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Đã cứu 1 nguồn và đánh dấu 0 nguồn là hỏng.) #IABot (v2.0.8
Sideduck (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 5:
| birth_place = [[Hà Nội]], [[Việt Nam]]
| death_date = {{ngày mất và tuổi|1998|4|18|1932|3|1}}
| death_place = [[California]], [[Hoa Kỳ]]
| occupation = nhà[[Nhà thơ]]
| magnum_opus =
}}
'''Nguyên Sa''' ([[1 tháng 3]] năm [[1932]] tại [[Hà Nội]]<ref>{{Chú thích web |url=http://evan.vnexpress.net/News/phe-binh/phe-binh/2008/07/3B9ADF92/ |ngày truy cập=2009-09-22 |tựa đề=Những bài thơ cuối cùng của Nguyên Sa |archive-date=2010-02-02 |archive-url=https://web.archive.org/web/20100202041227/http://evan.vnexpress.net/News/phe%2Dbinh/phe%2Dbinh/2008/07/3B9ADF92/ }}</ref> – [[18 tháng 4]] năm [[1998]]), tên thật là '''Trần Bích Lan''', còn có bút danh '''Hư Trúc'''. Ông là một nhà thơ lãng mạn [[Việt Nam]] nổi tiếng từ [[thập niên 1950]], với những tác phẩm nổi danh như "Áo lụa Hà Đông", "Paris có gì lạ không em", "Tuổi mười ba", "Tháng sáu trời mưa", "Hư ảo trăng" v,..v.
 
==Tiểu sử==
{{chú thích trong bài}}
 
Tổ tiên Nguyên Sa gốc ở xã Hóa Khuê, huyện Hòa Vang, thuộc Quảng Nam (nay thuộc Quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà nẵngNẵng), trải qua biến loạn năm Giáp Ngọ (Nhà Trịnh chiếm lấy Phú Xuân) thì di cư vào Gia Định rồi sau đó vào đầu đời Gia Long ra làm quan tại [[Thuận Hóa]] ([[Huế]]) đến hàm Công Bộ Thượng Thư. Ông cố ông làm quan đến chức Tri Phủ sau về hưu ở lại Hà nộiNội cùng con cháu lập nghiệp tại đó. (Một người em ông cố của Nguyên Sa là ngài Trần Trạm làm quan trảikinh qua các chức Phủ Doãn Thừa Thiên, Tham Tri Bộ Lại, Thượng thưThư Bộ lại sau khi mất được ban tặng Hiệp Tá Đại Học Sỹ, ''Cáo thụ Vinh Lộc đại phu, thụy Văn Ý'')
 
Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, gia đình ông tản cư đi [[Hà Đông]]. Tại đây, ông bị Việt Minh bắt giam khi mới 15 tuổi. Hồi cư về Hà Nội, gia đình cho ông qua Pháp du học vào năm [[1949]].
 
Năm [[1953]], ông đậu tú tài [[Pháp]], lên [[Paris]] ghi danh học triết tại [[Sorbonne|Đại học Sorbonne]]. Nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được sáng tác trong thời gian này.
 
Năm [[1955]], ông lập gia đình với bà Trịnh Thúy Nga ở Paris. Đầu năm 1956, hai ông bà về nước, sống tại [[Sài Gòn]].
 
Năm [[1975]], ông di tản đi Pháp. Ba năm sau, ông và gia đình qua [[Hoa Kỳ]] và ở [[California]] từ đó cho tới ngày qua đời.
 
Ông mất ngày [[18 tháng 4]] năm 1998.
 
===Dạy học===
Dòng 31:
Ông mở hai trường tư thục là Văn Học và Văn Khôi.
 
Ngoài hai trường nhà, ông còn cộng tác với nhiều trường khác ở Sài Gòn như: Văn Lang, Nguyễn Bá Tòng, Hưng Đạo, Thủ Khoa, Thượng Hiền, Võ Trường Toản, Trường Nguyễn Văn Khuyên (Bồ Đề SàigònSài Gòn) sau này là Đồng Khởi.
 
===Báo chí===