Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàn Y”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
 
Dòng 1:
'''Hoàn Y''' ({{zh|c=桓伊|p=Huán Yī}}, ? - ?391), tự Thúc Hạ, tên lúc nhỏ Tử Dã <ref>Thế thuyết tân ngữ - Phương chính</ref> hay Dã Vương<ref>Theo Tấn thư - Hoàn Y truyện</ref>, người huyện Chí, Tiếu Quốc <ref>Nay là [[Tuy Khê]], [[An Huy]]</ref>, danh sĩ, nhà âm nhạc, tướng lĩnhlãnh nhà [[Nhà Tấn|Đông Tấn]]. Ôngtrong [[lịch quansử hệTrung họ hàng với danh tướng [[Hoàn TuyênQuốc]].
 
==SựXuất nghiệpthân==
Y tự Thúc Hạ, tên lúc nhỏ (tiểu tự) là Dã Vương hay Tử Dã {{efn|Tấn thư, tlđd chép là '''Dã Vương''', Thế thuyết tân ngữ, [[:wikisource:zh:世說新語/方正|Phương chánh]]: Hoàn công vấn Hoàn '''Tử Dã''': “Tạ An Thạch liệu Vạn Thạch tất bại, hà dĩ bất gián?” (tạm dịch: Hoàn công (Hoàn Ôn) hỏi Hoàn Tử Dã: “Tạ An Thạch (Tạ An) tính Vạn Thạch (Tạ Vạn) ắt bại, sao lại không can?”) Lưu Hiếu Tiêu chua: “'''Tử Dã''', Hoàn Y tiểu tự dã.” (tạm dịch: Tử Dã là tiểu tự của Hoàn Y đấy.)}}, người huyện Chí, nước (quận) Tiếu {{efn|Nay là trấn Lâm Hoán, [[huyện (Trung Quốc)|huyện]] [[Tuy Khê]], [[địa cấp thị]] [[Hoài Bắc]], [[An Huy]]}}. Y là cháu họ (tộc tử) của danh tướng [[Hoàn Tuyên]]; cha là Hoàn Cảnh, cũng là bậc tài cán đương thời, được làm quan đến Thị trung, Đan Dương doãn, Trung lĩnh quân, Hộ quân tướng quân, Trường Xã hầu. <ref name="T">''[[Tấn thư]] quyển 81, liệt truyện 51, Hoàn Tuyên truyện''</ref>
===Chính trị - Quân sự===
Y có tài võ nghệ, tính thông minh nhạy bén, lại giản dị ngay thẳng, rất được các danh sĩ Vương Mông, Lưu Đàm khen ngợi. Từng làm Tham quân sự cho nhiều nơi, rồi làm Tham quân cho Đại tư mã [[Hoàn Ôn]]. Khi nhà [[Tiền Tần]] cường thịnh, biên thuỳ nhiều việc, triều đình muốn tuyển người bảo vệ bờ cõi, bèn thụ Y làm Hoài Nam thái thú.
 
NămY Hàm Antài đầu tiênnghệ, tính thông (371)minh, Hoàngiản Ôndị, vâyđược Thọ[[Vương XuânMông]], đang[[Lưu bịĐàm]] conxem trọng, lần lượt được làm Tham quân sự ở các phủ của phảnhọ, tướngdần Viênthăng Chânlàm tham Cẩnquân chiếmcho cứ.Đại Y cùng [[TạHoàn HuyềnÔn]]. pháBấy tướnggiờ [[Tiền Tần]] cương bọn Vương Giámthịnh, Trươngbiên Hàothùy đếnnhiều giúpnỗi Cẩnlo, nhờtriều côngđình đượcbàn phongbạc Tuyênchọn Thànhngười <ref>Nay thể [[Tuyênchiến Thành]],đấu Anbảo Huy</ref>vệ huyệnlãnh tửthổ, Dựbèn Châuthụ thứY làm Hoài Nam thái thú. Nhờ tổ chức phòng ngự có phương sửpháp, Y được tiến làm Đốc quânDự sựChâu chi 12 quận, thuộc DựDương Châu và 5 quậnchi Giang Tây thuộc5 Dươngquận Châuquân sự, nhiệm chức Kiến uy tướng quân, Lịch Dương thái thú. Lại tiến làm Đô đốc Dự Châu chư quân sự, nhiệmHoài TâyNam trungthái langthú tướng,như Dựcũ. Châu<ref thứname="T" sử./>
 
==Sự nghiệp==
Năm Thái Nguyên thứ 8 (383), lại cùng Quan quân tướng quân Tạ Huyền, Phụ quốc tướng quân [[Tạ Diễm]] đại phá quân Tiền Tần ở [[Trận Phì Thủy|Phì Thủy]], nhờ công được phong Vĩnh Tu <ref>Nay là [[Vĩnh Tu]], [[Giang Tây]]</ref> huyện hầu, tiến hiệu Hữu quân tướng quân.
Tháng 8 ÂL năm Thái Hòa thứ 5 (370), Hoàn Ôn vây con trai phản tướng [[Viên Chân]] (đã mất) là [[Viên Cấn]] ở Thọ Xuân. Tháng giêng ÂL năm sau (371), tướng Tiền Tần là bọn Vũ vệ tướng quân Vương Giám, Tiền tướng quân Trương Hào đem 2 vạn bộ kỵ cứu viện Viên Cấn, Ôn sai Y cùng bọn Nam Đốn thái thú [[Hoàn Thạch Kiền]] đón đánh ở Thạch Kiều, đại phá địch. Trong tháng ấy, quân Tấn chiếm được Thọ Xuân, Ôn bắt cả họ của Viên Cấn về Kiến Khang để chém đầu. <ref >''[[Tư trị thông giám]] quyển 103, Tấn kỷ 25, Thái Tông Giản Văn hoàng đế Hàm An nguyên niên, (Tân Mùi, năm 371 CN)''</ref> Y nhờ công được phong Tuyên Thành huyện tử, tiến làm Đô đốc Dự Châu chư quân sự, Tây trung lang tướng, Dự Châu thứ sử. <ref name="T" />
 
Tháng 9 ÂL năm Thái Nguyên đầu tiên (376), [[Hoàn Xung]] muốn giải vây cho [[Tiền Lương]], sai Y đem quân uy hiếp Thọ Dương (tức Thọ Xuân, nay phải kiêng húy [[Trịnh A Xuân]], mẹ của [[Tấn Giản Văn đế]], lên ngôi cuối năm 371) của Tiền Tần. Nhưng Tiền Tần đã diệt được Tiền Lương, nên Xung bãi binh. <ref >''[[Tư trị thông giám]] quyển 104, Tấn kỷ 26, Liệt Tông Hiếu Vũ hoàng đế thượng chi trung Thái Nguyên nguyên niên (Bính Tý, năm 376 CN)''</ref>
Năm Thái Nguyên thứ 9 (384), [[Hoàn Xung]] mất, Y được thăng làm Đô đốc quân sự của Giang Châu, 10 quận thuộc Kinh Châu, 4 quận thuộc Dự Châu, nhiệm chức Giang Châu thứ sử, Giả tiết. Y đến trấn, cho rằng biên cảnh vô sự, nên thi hành chính sự khoan hoà; lại dâng sớ rằng Giang Châu thiếu thốn, nhiều năm mất mùa, chỉ còn hơn 56000 hộ, nên gộp các huyện nhỏ, tha cho các quận còn nợ gạo, dời Châu trị về Dự Chương. Chiếu lệnh dời Châu trị về Tầm Dương, còn lại đều nghe theo. Ông ở trấn 10 năm, tuỳ nghi vỗ về, trăm họ được yên.
 
Tháng 9 ÂL năm thứ 8 (383), Y theo Tiền phong đô đốc [[Tạ Huyền]] đem 8 vạn binh kháng cự đại quân Tiền Tần. Tháng 11 ÂL, quân Tấn đại thắng ở [[trận Phì Thủy]], <ref >''[[Tư trị thông giám]] quyển 105, Tấn kỷ 27, Liệt Tông Hiếu Vũ hoàng đế thượng chi hạ Thái Nguyên bát niên (Quý Mùi, năm 383 CN)''</ref> Y nhờ công được phong Vĩnh Tu huyện hầu, tiến hiệu Hữu quân tướng quân, ban trăm vạn tiền, ngàn tấm vải may áo khoác. <ref name="T" />
Sau đó được triệu về làm Hộ quân tướng quân. Trong phủ Hữu quân của Y có hơn ngàn người, đều được theo về phủ Hộ quân. Mất khi đang ở chức, tặng Hữu tướng quân, gia Tán kị thường thị, thuỵ là Liệt.
 
Y ở Dự Châu 10 năm, vỗ về dân chúng bản địa, rất được lòng người. Hoàn Xung mất (384), Y được thăng làm Đô đốc Giang Châu, Kinh Châu 10 quận, Dự Châu 4 quận quân sự, Giang Châu thứ sử, tướng quân như cũ, giả tiết. Y đến trấn, lấy cớ biên cảnh không còn nỗi lo, nên lấy việc khoan dung thể tuất nhân dân làm trọng, bèn dâng sớ cho rằng Giang Châu trống rỗng, lại thêm liên tiếp mấy năm mất mùa, nay có hơn 56000 hộ, nên tinh hợp huyện nhỏ, bỏ nợ gạo của các quận, dời châu trị về Dự Chương. Triều đình giáng chiếu dời châu trị về Tầm Dương, còn lại đều nghe theo. Y tùy nghi cứu giúp, vỗ về, trăm họ được nhờ. Sau nhiều năm ở địa phương, Y được trưng về triều làm Hộ quân tướng quân, được đem theo ngàn người của phủ Hữu quân, phối vào phủ Hộ quân. <ref name="T" />
Khi xưa ở trận Phì Thuỷ, Y bắt được 600 bộ giáp, lâm chung, dặn người nhà dâng lên triều đình. Có chiếu khen ngợi lòng trung thành của ông mà nhận.
 
Tháng 11 ÂL năm Thái Nguyên thứ 6 (391), <ref>''[[Kiến Khang thực lục]] [[:wikisource:zh:建康實錄/卷09|quyển 9]]''</ref> Y mất khi đang ở chức, được tặng Hữu tướng quân, gia Tán kỵ thường thị, thụy là Liệt. <ref name="T" />
===Âm nhạc===
====Giang Tả đệ nhất====
Y giỏi âm nhạc, được người thời bấy giờ ca ngợi là "Giang Tả đệ nhất". Ông giỏi nhất là thổi địch ([[sáo (nhạc cụ)|sáo ngang]]), được gọi là "Địch thánh", thường sử dụng cây địch có tên là Kha Đình, do nhà âm nhạc, nhà văn nổi tiếng [[Thái Ung]] đời [[nhà Hán]] chế tác <ref>Phục Thao, "Trường địch phú tự": 余同僚桓子野有故长笛名柯; Hán Việt: dư đồng liêu Hoàn Tử Dã hữu cố trường địch danh Kha Đình; Tạm dịch: Đồng liêu của tôi là Hoàn Tử Dã có cây địch dài và cũ tên là Kha Đình</ref>.
 
====Địch thượng tam lộng====
Danh sĩ Vương Huy Chi được triệu về kinh, đỗ thuyền ở bên Thanh Khê. Hoàn Y đi ngang qua, có người trong thuyền nhận ra, Huy Chi lập tức mời ông thổi sáo, Y khi ấy đã vinh hiển, không hề phật ý, bèn thổi 3 điệu, tương truyền chính là bản sáo (địch khúc) ‘[[Mai hoa tam lộng]]’, rồi lên xe mà đi. Hai người Vương, Hoàn không hề quen biết nhau, cũng không nói thêm với nhau 1 lời nào! Đây chính là điển cố "địch thượng tam lộng".
 
Trong "Thần kì bí phổ" của Chu Quyền đời [[nhà Minh]], có chép bản đàn (cầm khúc) ‘Mai hoa tam lộng’. Ông ta cho rằng đây vốn là bản sáo do Hoàn Y sáng tác, người đời sau đã cải biên, rồi thay bằng đàn.
 
====Can gián bằng âm nhạc====
Sau trận Phì Thuỷ, công danh của Tạ An ngày càng thịnh, chịu nhiều sự đố kỵ, quan hệ với [[Tấn Hiếu Vũ đế]] dần xấu đi. Trong một bữa tiệc cung đình, đế lệnh cho Hoàn Y diễn tấu. Ông nâng sáo, thổi xong khúc nhạc, khiến mọi người đều mê đắm. Y buông sáo, dâng lời rằng đơn tấu không bằng hợp tấu, xin lấy kẻ nô bộc của mình thổi sáo, còn bản thân vừa đàn Tranh vừa hát, đế cho.
 
Chủ tớ Y bèn biểu diễn bài ‘Oán thi’ (còn gọi là ‘Oán ca hành’) của [[Tào Thực]], có câu: "为君既不易,为臣良独难,忠信事不显,乃有见疑患" (Hán Việt: Vi quân ký bất dịch, vi thần lương độc nan, trung tín sự bất hiển, nãi hữu kiến nghi hoạn. Tạm dịch: Làm vua đã không dễ, làm tôi cũng rất khó, việc trung tín không được vẻ vang, còn phải chịu sự nghi ngờ). Lời, điệu khẳng khái, mọi người đều chăm chú theo dõi. Xong, [[Tạ An]] lấy tay áo chậm nước mắt, bước ra khỏi chỗ ngồi, đến gần ông mà nói: "Sứ quân chuyến này quả bất phàm!" Đế rất lấy làm hổ thẹn.
 
====Nhất vãng thâm tình====
Hoàn Y giỏi hát Vãn ca <ref>Theo [[Thiều Chửu|tự điển Thiều Chửu]], Vãn ca là tiếng họa lại của kẻ cầm phất đi theo xe tang</ref>, cùng Dương Đàm tấu nhạc và bài từ ‘Hành lộ nan’ của Viên Sơn Tùng được người thời ấy gọi là ‘tam tuyệt’. Mỗi khi nghe được âm nhạc hay, ông đều không kìm được mà kêu lên rằng: "Làm sao đây?" <ref name="T">Thế thuyết tân ngữ - Nhâm đản</ref><ref>Theo Đường Trường Nhụ, "Ngụy Tấn Nam Bắc triều sử luận tùng": Con cái kêu "nại hà?" (奈何) hay "cùng" (窮) trong tang lễ của cha mẹ là phong tục ở Lạc Dương và vùng phụ cận</ref>
 
Tạ An thường đàm luận với Y, nhận xét: "Tử Dã thật sự có tình cảm sâu đậm đối với âm nhạc!" (Nguyên văn: 子野可谓一往有深情, Hán Việt: Tử Dã khả vị nhất vãng hữu thâm tình) <ref name="T"/> Đây chính là điển cố "nhất vãng thâm tình" hay "nhất vãng tình thâm".
 
==Gia đình==
ChaEm trai[[Hoàn CảnhBất Tài]], làmtham quangia đếnđánh Thịdẹp trung,[[khởi Đannghĩa DươngTôn doãnÂn]], Trungđược lĩnhlàm quân,đến HộQuan quân tướng quân. <ref name="T" />
 
Con trai là Hoàn Túc Chi được kế tự. Túc Chi mất, con Túc Chi Hoàn Lăng được kế tự. Nhà [[NamLưu TềTống]] thay ngôi nhà [[LưuĐông TốngTấn]], hầu quốc của nhà họ Hoàn bị trừ bỏ. <ref name="T" />
 
==Tính cách==
Em trai là [[Hoàn Bất Tài|Bất Tài]], tham gia đánh dẹp [[khởi nghĩa Tôn Ân]], làm đến Quan quân tướng quân.
Y tính khiêm tốn, trong sạch, dẫu có công lớn, nhưng trước sau không đổi. Y giỏi âm nhạc, nắm hết cái hay đương thời, được khen là “Giang tả đệ nhất”. Y có cây địch (sáo ngang) Kha Đình ([[:zh:柯亭笛|柯亭笛]]) do [[Thái Ung]] chế tác, luôn dùng nó để thổi. Danh sĩ [[Vương Huy Chi]] (con trai thứ 5 của [[Vương Hy Chi]]) trở về kinh sư, đỗ thuyền bên bờ Thanh Khê. Y ở trên bờ đi ngang qua, khách trong thuyền gọi tên lúc nhỏ của ông mà rằng: “Đây là Hoàn Dã Vương đấy.” Hai người vốn không quen nhau, nhưng Huy Chi lại khiến người nói với Y rằng: “Nghe nói anh giỏi thổi địch, thử làm một bản xem sao.” Y bấy giờ đã hiển hách, nhưng vốn nghe tiếng của Huy Chi, nên vẫn xuống xe, ngồi ghế xếp (hồ sàng) thổi lên 3 điệu, dứt nhạc liền lên xe bỏ đi. Rốt cục hai người không nói với nhau lời nào. <ref name="T" /> <ref name="T1">''[[Thế thuyết tân ngữ]], [[:wikisource:zh:世說新語/任誕|Nhâm đản]]''</ref>
 
Bấy giờ con rể của [[Tạ An]] là [[Vương Quốc Bảo]] mưu cầu lợi ích, không giữ hạnh kiểm; An ghét cách làm người ấy, luôn ức chế hắn ta. Cuối đời, [[Tấn Hiếu Vũ đế]] thích rượu ham sắc, còn Cối Kê vương [[Tư Mã Đạo Tử]] hôn ám quá lắm, chỉ gần gũi kẻ siểm nịnh. Vì vậy Quốc Bảo gièm pha, a dua để ly gián vua tôi, nhằm vào công danh đang vào lúc cực thịnh của An, gây ra hiềm khích giữa An với anh em hoàng đế. Lần nọ đế triệu Y ăn tiệc, có An ngồi hầu. Đế mệnh Y thổi địch, ông tỏ vẻ thuận theo, lập tức thổi 1 khúc nhạc, rồi buông địch nói: “Thần đàn tranh không bằng thổi địch, nhưng tự thấy đủ để diễn xướng, xin phép vừa đàn vừa hát, còn xin thêm một người thổi địch.” Đế chuộng giai điệu thư sướng ấy, liền sắc ngự kỹ thổi địch. Y lại nói: “Người của nội phủ phối hợp với thần ắt không tốt, thần có đứa ở, giỏi cùng nhau diễn tấu.” Đế càng thích thái độ thẳng thắn ấy, bèn cho triệu kẻ ấy. Đứa ở thổi địch, còn Y gảy tranh mà ca bài Oán ca hành: “Vi quân kí bất dịch, vi thần lương độc nan. Trung tín sự bất hiển, nãi hữu kiến nghi hoạn. Chu Đán tá Văn Vũ, Kim Đằng công bất khan. Thôi tâm phụ vương chánh, nhị thúc phản lưu ngôn.” (tạm dịch: Làm vua đã không dễ, làm tôi thật cũng khó. Việc trung tín không rõ, thì phải chịu nghi ngờ. Chu Đán giúp Văn, Võ, kim đằng không bỏ mất. Dốc lòng giúp nhà vua, hai em đồn làm phản.) Giọng hát và điệu nhạc khẳng khái, cả hai đều tuyệt hay. An chảy nước mắt ướt đẫm vạt áo, bước ra khỏi chỗ ngồi đến bên Y, vuốt râu của ông mà nói: “Sứ quân chuyến này bất phàm.” Đế rất lấy làm hổ thẹn. {{efn|Tấn thư, tlđd chép là “Oán thi”, Lưu Hiêu Tiêu chú giải Thế thuyết tân ngữ, Nhâm đản, dẫn Tục tấn dương thu cũng chép là “Oán thi”. Đây chính là bài [[:wikisource:zh:樂府詩集/042卷#同前(魏•曹植)|Oán ca hành của Tào Thực]], nội dung miêu thuật việc Chu công [[Cơ Đán]] có công phò tá [[Chu Văn vương]], [[Chu Võ vương]], nhưng bị các em trai [[Quản thúc Tiên]], [[Sái thúc Độ]] thuê dệt lời đồn mưu phản, khiến [[Chu Thành vương]] nghi ngờ. Vì vậy Chu công quy ẩn ở [[nước Sở]], đem sắc thư của mình cất vào hòm, niêm phong bằng vàng (kim đằng). Sau này Thành vương mở hòm, đọc được sắc thư Chu công cầu trời xin chết thay cho Võ vương; Thành vương cảm động, mời Chu công quay về. Đây là [[Tào Thực]] mượn việc xưa để tỏ lòng, hy vọng [[Tào Ngụy Minh đế]] giống như Thành vương, không còn nghi ngờ người chú như mình nữa, trùng hợp với tình cảnh của Tạ An lúc bấy giờ.}} <ref name="T" />
==Địa danh liên quan==
‘Đại Minh nhất thống chí’ chép mộ của Hoàn Y ở đường Thạch Mã, phường Thái Gia, ngoài cửa nam thành Nam Xương <ref>Nay là thôn Thạch Mã, [[Thanh Vân Phổ]]</ref>.
 
Sau trận Phì Thùy, Y giành được 100 bộ trang bị kỵ binh, 500 bộ khải giáp bộ binh của quân đội Tiền Tần, đều để lại Tầm Dương chứ không đem về kinh. Y đã làm sẵn tờ biểu, lệnh cho con trai sau khi mình mất thì dâng lên triều đình, xin nộp lại số chiến cụ ấy. Triều đình giáng chiếu khen ngợi lòng trung thành của Y và thu nhận. <ref name="T" />
Hoàn Y đọc sách tập võ tại nơi ngày nay là chùa Y Sơn, thôn Y Sơn, trấn Sam Kiều, huyện [[Hành Dương]], tỉnh [[Hồ Nam]]. Ngôi chùa này được sửa sang trong những năm [[Thái Nguyên (định hướng)|Thái Nguyên]] ([[376]] - [[396]]) nhà Tấn, được [[Tống Huy Tông]] ban sắc ‘Cảnh Đức Thiện Tự’. Chùa Y Sơn ở dưới chân núi Y (còn gọi là Dã Vương lĩnh) là một trong những tự viện [[Phật giáo]] xuất hiện sớm nhất ở vùng Tương Nam.
 
==TácThành phẩmngữ liên quan==
* '''Nhất vãng thâm tình''' (一往深情), ý nói gởi gắm rất nhiều tình cảm.
[[Đỗ Mục]], ‘Nhuận châu’ có câu "Nguyệt minh canh tưởng Hoàn Y tại, nhất địch văn xuy xuất tái sầu".
*: Nguồn gốc: Y giỏi hát Vãn ca, đương thời cùng [[Dương Đàm]] tấu nhạc, [[Viên Sơn Tùng]] hát [[Hành lộ nan]], được khen là Tam tuyệt. <ref >[[Lưu Hiếu Tiêu]] chú ''Thế thuyết tân ngữ, Nhâm đản'' dẫn [[Tục Tấn dương thu]]</ref> Y mỗi khi nghe Vãn ca {{efn|Nguyên văn: 清歌/thanh ca, tức 挽歌/vãn ca, là tiếng hát thương xót người chết. ''Tấn thư quyển 20, Chí 10, Lễ trung'': “Tân lễ dĩ vi vãn ca xuất vu [[Hán Vũ đế]] dịch nhân chi lao ca, thanh ai thiết, toại dĩ vi tống chung chi lễ.” (tạm dịch: Lễ mới cho rằng vãn ca xuất từ bài ca về sự nhọc nhằn của kẻ chịu lao dịch thời Hán Vũ đế, tiếng kêu đau buồn thê thiết, bèn dùng trong lễ đưa tang.)}}, liền hô lên “Nại hà!” (tạm dịch: Làm sao đây, tiếng kêu than trong tang lễ) Tạ An nghe được việc ấy thì nói: “Tử Dã khả vị nhất vãng hữu thâm tình.” (tạm dịch: Tử Dã có thể nói là rất gởi gắm rất nhiều tình cảm <cho Vãn ca>.) <ref name="T1" />
 
[[Tô Đông Pha]], ‘Chiêu Quân oán’ có câu: "Thùy tác Hoàn Y tam lộng, kinh phá lục song u mộng".
 
[[Hồng Hạo]], ‘Giang mai dẫn - Ức giang mai’ có câu: "Mạn đàm lục ỷ, dẫn tam lộng, bất giác hồn phi".
 
==Đánh giá==
Hoàn Y văn võ toàn tài, trung can nghĩa đảm, lại tinh thông âm luật. Quả là không gì không giỏi, chẳng ai theo kịp.
 
Ông thổi sáo bên bờ Thanh Khê, phong lưu khoát đạt khiến cho người ta không khỏi hâm mộ; lại đàn hát thay lời can gián, khiến cho muôn đời cảm phục.
 
==Tham khảo==
{{Thamtham khảo}}
* [[Tấn thư]] – Hoàn Y truyện
* [[Lưu Nghĩa Khánh]], [[Thế thuyết tân ngữ]]
 
==Chú thích==
{{Tham khảo}}
 
==Ghi chú==
[[Thể loại:Nhân vật quân sự nhà Tấn]]
{{notelist}}
[[Thể loại:Năm sinh thiếu]]
[[Thể loại:Năm mất thiếu]]
[[Thể loại:Người An Huy]]
[[Thể loại:Cổ nhạc Trung Hoa]]