Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hoàng quý phi”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →Nhiếp lục cung sự: chỉnh sửa thông tin lặp lại, thừa và sai chính tả |
n →Trung Quốc: sửa hoa thường và chính tả, cũng bỏ dẫn link trang lung tung, đột nhiên dẫn chữ "Hoàng tổ" vào nhân vật "Hoàng Tổ" thời kỳ Tam Quốc làm gì? |
||
Dòng 19:
Từ triều đại nhà Minh, bởi vì vị phân chỉ ngay dưới danh hiệu hoàng hậu, cũng giống hoàng hậu được nhận "Bảo" và với chữ "Hoàng" ngay đầu danh xưng, cuối cùng là sự biệt đãi mà [[Lý Quý phi (Minh Mục Tông)|Hoàng quý phi Lý thị]] - sinh mẫu của Minh Thần Tông được hưởng dưới thời kỳ Long Khánh, nên hoàng quý phi trong cung đình nhà Minh đã sớm có danh xưng "''Á vị Trung cung''" (亚位中宫)<ref>{{harvp|Hội đồng biên soạn nhà Minh|loc=[https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=854263&remap=gb#p59 "Mục Tông Trang Hoàng đế thực lục"・quyển 16]|ps=: 皇太子诣上位前,皇后前,各行八拜礼,又诣皇贵妃前行八拜礼,毕,回宫。}}</ref><ref>{{harvp|Hội đồng biên soạn nhà Minh|loc=[https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=920537&remap=gb#p26 "Thần Tông Hiển Hoàng đế thực lục"・quyển 171]|ps=: 户科给事中姜应麟题,正名定分国本,所以安别嫌明微君道,所以正恭睹。圣谕贵妃郑氏著进封皇贵妃,臣愚窃谓礼贵别嫌事当慎,始贵妃以孕育蒙恩,岂曰不宜但名号大崇,亦所宜虑贵妃虽贤,所生固皇上第三子也,犹然亚位中宫,则恭妃诞育元嗣。主鬯承祧,乃其发祥顾当翻令,居下耶揆之伦,理则不顺质之人心,则不安传之天下,万世则不典非,所以重储贰定众志也。伏乞皇上俯从末议,收回成命,以协舆情其或情,不容已势不可回,则愿首册恭妃为皇贵妃,次及贵妃,两典一时不妨并举,则礼既不违情,亦不废长幼之分明,而本支之义得矣。抑臣之所议者末也,未及其本也。皇上诚欲正名,定分别嫌明,微莫若俯从阁臣之请,册立元嗣为东宫,以定天下之本,则臣民之望慰,而宗社之庆长矣。上怒,责其窥探命,降极边杂职得山西广昌县典史。}}</ref>. Về sau, sự sủng ái mà Minh Thần Tông dành cho sủng phi [[Trịnh Quý phi (Minh Thần Tông)|Trịnh Quý phi]] nên dân gian đời Minh đã có quan niệm hoàng quý phi rất sát với hoàng hậu, gọi là "''Lân vu Chính đích''" (邻于正嫡)<ref>{{harvp|Thẩm Đức Phù|loc=[https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=103071&remap=gb#p150 quyển 3]|ps=: 皇贵妃之体,邻于正嫡,凡禁中大庆,奉请两宫,则中宫奉侍仁圣,而翼坤奉侍慈圣,得并讲姑媳之体,他贵嫔皆退避不敢望见。}}</ref>. Sang triều Thanh, danh vị này lại được Thuận Trị Đế tạo ra dùng để sách phong cho sủng thiếp Đổng Ngạc phi, dẫn đến nhiều danh xưng như là "''Trung cung chi thứ''" (中宫之次), "''Thủ tương nội trị''" (首襄内治){{noteTag|Có nghĩa "''Chỉ dưới Trung cung''" và "''Đứng đầu phụ tá nội trị''", hai cụm này xuất phát từ chỉ dụ Thuận Trị Đế sách phong Đổng Ngạc thị làm Hoàng quý phi<ref>{{harvp|Hội đồng biên soạn nhà Thanh|1985|loc=[https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=614051 "Thế Tổ Chương Hoàng đế thực lục"・quyển 103]|ps=: 甲戌。諭禮部。朕前奉聖母皇太后諭、內大臣鄂碩之女董鄂氏、立為賢妃。本月二十八日又奉聖母皇太后諭。式稽古制、中宮之次、有皇貴妃首襄內治。因慎加簡擇。敏慧端良、未有出董鄂氏之上者。應立為皇貴妃。爾部即查照典禮。於十二月初六日吉期、行冊封禮。}}</ref>.}} hay "'''Phó hậu'''" (副后)<ref name = "PH"/>, đại khái như một hoàng hậu thứ hai trong hậu cung. Thế nhưng trong thực tế, hoàng quý phi vẫn chỉ là tước vị dành cho một phi tần, mà thân phận giữa hoàng hậu và phi tần có một khoảng cách lớn giữa "chủ nhân" và "nô bộc" trong tư duy của người xưa, đây là một ranh giới không thể vượt qua và được thể hiện rất rõ trong các dịp lễ nghi.
Theo quy định trong [[Quốc triều cung sử]] thời Thanh, tôn vị
Bên cạnh đó, hậu cung triều Thanh có quy định khá nghiêm ngặt về tác phong hậu phi, không thể không kể đến đoàn tháp tùng dùng các đồ vật mang tính chất lễ nghi trong các dịp quan trọng, trong đó ba bậc
==== Di phi ====
Cung tần triều trước, cũng gọi "'''[[Thái phi]]'''", vào hai đời Minh-Thanh có quy định đãi ngộ khác nhau, triều Minh đa phần gọi họ theo kiểu "Hoàng phi" cùng [[miếu hiệu]] của hoàng đế, như Hoàng quý phi Thẩm thị của Minh Thế Tông được gọi là '''Thế miếu Hoàng quý phi''' (世廟皇貴妃) dưới thời Thần Tông<ref>{{harvp|Hội đồng biên soạn nhà Minh|loc=[https://ctext.org/wiki.pl?if=gb&chapter=98549&remap=gb#p25 "Thần Tông Hiển Hoàng đế thực lục"・quyển 117]|ps=: 世庙皇贵妃沈氏薨,上辍朝五日。}}</ref>. Trong khi đó, nhà Thanh lại thường gọi chung nhóm cung tần triều trước là "Thái phi", đồng thời còn thường xuyên gia tặng danh vị cho các thái phi như một biện pháp ân ban trong các dịp trọng đại, ví dụ một vị "Phi" của triều trước vẫn có thể được tôn lên "Quý phi", rồi "Hoàng quý phi" của triều sau. Tuy trên điển chế thường ghi nhận rõ một đời hoàng đế tại vị chỉ có một hoàng quý phi, nhưng lại không đề cập đến các thái phi, do đó các triều đại về sau vẫn thường tấn tôn các thái phi lên vị trí này, xem như là một loại ân điển tạo ra tình trạng có thể cùng một lúc có nhiều thái phi mang danh vị hoàng quý phi.
Và vì để phân biệt giữa phi tần cùng thái phi trong trường hợp cùng mang một danh vị, triều Thanh thường hay kèm tiền tố "''Hoàng khảo''" (皇考) nếu là phi tần của hoàng đế triều trước có vai "cha" của hoàng đế tại vị, và "
* [[Cung Thuận Hoàng quý phi]] Nữu Hỗ Lộc thị là phi tần của [[Gia Khánh Đế]], được Hàm Phong Đế tôn phong '''Hoàng tổ Như Hoàng quý thái phi''' (皇祖如皇貴太妃)<ref>{{harvp|Triệu Nhĩ Tốn|loc=[https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%B8%85%E5%8F%B2%E7%A8%BF/%E5%8D%B7214 quyển 214]|ps=: 恭順皇貴妃,鈕祜祿氏。嘉慶初,選入宮,為如貴人。累進如妃。宣宗尊為皇考如皇貴妃,居壽安宮。文宗尊為皇祖如皇貴太妃。薨,年七十四,諡曰恭順皇貴妃。子一,綿愉。女二,殤。}}</ref>.
* [[Hiếu Tĩnh Thành Hoàng hậu]] Nữu Hỗ Lộc thị là phi tần của [[Đạo Quang Đế]], vì có công nuôi dưỡng nên được nhà
Thời kì [[Đồng Trị]] và [[Quang Tự]] noi theo như trên, cũng có thái phi của tiên đế đã được gia tôn làm "Hoàng quý thái phi" như [[Trang Tĩnh Hoàng quý phi]]<ref>{{harvp|Triệu Nhĩ Tốn|loc=[https://zh.wikisource.org/wiki/%E6%B8%85%E5%8F%B2%E7%A8%BF/%E5%8D%B7214 quyển 214]|ps=: 莊靜皇貴妃,他他拉氏。事文宗,爲貴人,累進麗妃。穆宗尊封爲皇考麗皇貴太妃。薨,諡曰莊靜皇貴妃。女一,下嫁符珍。}}</ref>. Vào thời Tuyên Thống, và đến tận khi [[Phổ Nghi]] chính thức thoái vị, triều đình nhà Thanh tồn tại 4 vị thái phi, lần lượt là [[Đoan Khang Hoàng quý phi]] Tha Tha Lạp thị của Quang Tự Đế, cùng [[Kính Ý Hoàng quý phi]] Hách Xá Lý thị, [[Trang Hòa Hoàng quý phi]] A Lỗ Đặc thị và [[Vinh Huệ Hoàng quý phi]] Tây Lâm Giác La thị của Đồng Trị Đế.
|