Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lê Kính Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã lùi lại sửa đổi của Malxian1214f (Thảo luận) quay về phiên bản cuối của 113.186.54.31
Thẻ: Lùi tất cả
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 62:
}}
{{Vua nhà Hậu Lê (theo năm)}}
'''Lê Kính Tông''' ([[chữ Hán]]: 黎敬宗 [[1588]] – [[23 tháng 6]] năm [[1619]]) có tên là '''Lê Duy Tân''' (黎維新), là vị hoàngHoàng đế thứ năm5 của nhà [[Nhà Lê trung hưng|Lê Trung hưng]] và thứ 16 của [[nhà Hậu Lê]] trong [[lịch sử Việt Nam]], người huyện [[Thọ Xuân]], [[Thanh Hóa]]. Ông làm vua từ năm [[1599]] đến năm [[1618]].
 
==Lên ngôi==
Dòng 72:
 
==Trị vì==
Ngay trước khi Kính Tông lên ngôi, chính quyền nhà vua giờ đã trở thành bù nhìn, mọi quyền hành thực sự nằm trong tay [[chúa Trịnh]]. Ông nội của Kính Tông là [[Lê Anh Tông]] (Duy Bang) đã bị Trịnh Tùng sát hại khi muốn chống lại Trịnh Tùng. Từ năm [[1600]], tình hình chính trị trong nước lại chuyển biến theo một cục diện mới. Ở miền bắcBắc, [[Trịnh Tùng]] đã cơ bản dẹp được [[nhà Mạc]], chỉ còn một số dư đảng ở miền trungTrung du và miền núi [[Việt Bắc]] vẫn phải nhiều lần đi dẹp.
 
Lúc đó trấnTrấn thủ [[Thuận Hóa]] [[Nguyễn Hoàng]] ở [[Thăng Long]] hơn 8 năm, bị [[Trịnh Tùng]] ghen ghét không cho về trấn. Mùa hạ năm [[1600]], Nguyễn Hoàng kích động bọn [[Phan Ngạn]], [[Bùi Văn Khuê]], [[Ngô Đình Nga]] nổi lên chống lại [[nhà Lê]], theo về họ Mạc. Nguyễn Hoàng xin được cầm quân đánh dẹp rồi bí mật đốt hết doanh trại, trốn về [[Thuận Hóa]]. Lòng người trong kinh kì dao động, vua Kính Tông phải theo Trịnh Tùng chạy về Thanh Hoa. Họ Mạc nhân đó lại nổi lên, giành lấy thành Thăng Long. Tháng 8 âm lịch, Trịnh Tùng đưa quân phản công, chiếm lại [[Đông Kinh]], bắt giết quốc mẫu họ Mạc, đuổi vua [[Mạc Kính Cung]] về [[Cao Bằng]]. Những năm tiếp theo, Trịnh Tùng nhiều lần đưa quân đánh lên Cao Bằng và [[Thái Nguyên]], đánh bại quân Mạc nhiều trận nhưng vẫn chưa thể tiêu diệt tận gốc.
 
== Mưu sát Trịnh Tùng và bị bức tử ==
Mùa hạ năm [[1619]], Lê Kính Tông vì thấy [[Trịnh Tùng]] chuyên quyền quá lắm, nên không chịu được. Biết con thứ của Trịnh Tùng là [[Trịnh Xuân]] tranh ngôi với [[Trịnh Tráng]], nên nhà vua bàn mưu với Xuân giết chúaChúa, rồi quyền bính sau này sẽ trao cho Xuân. Xuân nghe tin chúa sẽ ra bến Đông Hà xem đua thuyền, bèn sai thuộc hạ là Văn Đốc đặt địa lôi và phục súng ở cạnh ngã ba đường. Quả nhiên chúaChúa có đến lầu ở bờ sông. Khi về, thường chúaChúa cưỡi voi. Hôm ấy, chúaChúa thấy trong lòng không yên, cho [[voi]] [[ngựa]] và nghi vệ đi trước, còn tự mình ngồi kiệu đi sau. Đến chỗ ngã ba, có tiếng súng nổ, bắn gãy cây lọng tía. Vội sai truy bắt, thì bắt được Văn Đốc cùng đồ đảng, đem về phủ tra hỏi, y khai ra nhà vua cùng Vạn quận công (Xuân). Chúa sai Trấn quận công [[Trịnh Lâm]] và Nhạc quận công [[Bùi Sĩ Lâm]] vào điện xét hỏi tảTả hữuHữu, thì biết hết sự trạng.
 
Ngày [[23 tháng 6]], Trịnh Tùng ngự ra phủ đường, tập hợp bách quan; thân bưng mâm vàng trầu cau bước ra, khóc mà nói rằng:
:''Thời kỳ [[nhà Mạc|họ Mạc]], nhà vua đã không còn thiên hạ. Cha tôi thân khởi nghĩa binh, đón tiênTiên đế từ trong hang núi trở về, sáng lập triều đình. Tôi tôn phò ba triều, thân trải trăm trận đánh, thu phục giang sơn, tổn phí bao tâm lực, tuổi đã bảy mươi. Nay nhà vua nghe đứa con phản nghịch, nhẫn tâm làm việc này''.
Các thần liêu văn võ ai cũng phẫn uất. [[Nguyễn Danh Thế]], [[Lê Bật Tứ]], [[Nguyễn Duy Thì]] đều kiên quyết nói: "Con bất hiếu thì phải giết, vua vô đạo thì phải phế" và xin cho Xuân được tự tử. Lại theo việc trước đây Y, Hoắc đã làm. Chúa đáp:
:''Đây là việc lớn, các ông chớ nên khinh suất''.
Nguyễn Danh Thế xin bắt Trịnh Xuân, bãi hết quan tước, binh quyền, giam vào nội phủ. Chúa nghe theo và còn giết bọn Văn Đốc. Nhà vua nói với Đoan Từ Hoàng hậu [[Trịnh Thị Ngọc Trinh]] (con gái của chúaChúa):
:''Trẫm còn mặt mũi nào trông thấy vươngVương phụ nữa?''
Rồi tự thắt cổ chết, khi đó mới có 31 tuổi. Chúa nghe tin rất sửng sốt, thương xót. Sớm hôm sau gọi các bề tôi vào nói:
:''Tai biến của trời không phải vô cớ mà sinh ra, không ngờ nay lại thấy việc này. Nên làm sao bây giờ?''
Dòng 91:
Chúa bảo:
:''Lòng ta không nỡ''.
Và sai vẫn dùng lễ đối với thiênThiên tử. Triều đình bàn không nên đưa vào thờ ở tháiThái miếu mà lập một điện riêng để thờ cúng, dâng thụy là "'''Giản Huy Đế'''" táng ở lăng Bố Vệ<ref>Hoa Loan lăng được lập tại xã Bố Vệ, huyện Đông Sơn nên còn được gọi là Bố Vệ lăng. Tấm bia đá được dựng vào thời Minh Mạng nhà Nguyễn có khắc dòng chữ "Hoa Man lăng”. (華巒陵在東山縣布衞社,又稱“布衞陵”,阮朝明命年間所立石碑稱為“華蠻陵”。)</ref>. Mãi đến năm [[1631]], triều đình mới dâng tôn hiệu là '''Kính Tông Huệ Hoàng đế'''.
 
Sau khi Giản Huy đếĐế mất, trong tôn tộc còn có cháu đích của [[Lê Anh Tông|Anh Tông]], con Bản quốc công [[Lê Bách]] là Cường quận công [[Lê Duy Trụ]] lấy con gái của Thế tử Tráng, cũng có ý muốn lên ngôi. Hoàng hậu khóc với chúaChúa rằng:
:''Tiên quân có tội, chứ đứa con có tội gì? Sao lại bỏ con của con mà đi tìm người khác. Nếu phụ vương lập nó, thì đến muôn đời sau kẻ làm vua vẫn là con cháu của phụ vương vậy''.
 
Chúa mới quyết định, sai đại thần và bách quan rước TrưởngHoàng hoàngtrưởng tử [[Lê Duy Kì]] tới điện Cần Chánh lên ngôi, tức là [[Lê Thần Tông]].
 
== Gia quyến ==
Dòng 117:
|[[Trịnh Thị Ngọc Trinh]]
|
|Bình An Vươngvương
Trịnh Tùng
|
Dòng 131:
=== Hậu Duệ ===
{| class="wikitable"
|+Hoàng Tửtử
!STT
!Danh hiệu
Dòng 142:
|[[Lê Thần Tông]]
|[[Lê Thần Tông|Lê Duy Kỳ]]
|1607 - 1662
|[[Trịnh Thị Ngọc Trinh|Đoan Từ Huệ Hoàng hậu]]
[[Trịnh Thị Ngọc Trinh]]
Dòng 162:
|}
{| class="wikitable"
|+Công Chúachúa
!STT
!Danh hiệu