Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Thủy văn học”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
SieBot (thảo luận | đóng góp)
n robot Thay: vec:Idrołogia
Moimem (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 2:
'''Thủy văn học''' (tiếng Anh: ''hydrology'', gốc [[tiếng Hy Lạp|Hy Lạp]]: Yδρoλoγια, Yδωρ+Λoγos, ''Hydrologia'', nghĩa là "khoa học về nước") là ngành khoa học nghiên cứu về sự vận động, phân phối, và chất lượng của [[nước]] trên toàn bộ [[Trái Đất]], và vì thế nó đề cập đến cả vòng [[tuần hoàn nước]] và [[các nguồn nước]]. Những người nghiên cứu về thủy văn học được gọi là '''nhà thủy văn học''', họ làm việc trong cả lĩnh vực [[khoa học trái đất]] hay [[khoa học môi trường]], [[địa lý tự nhiên]] hay [[kỹ thuật xây dựng]] và [[kỹ thuật môi trường]].
Các lĩnh vực của thủy văn học bao gồm [[khí tượng-thủy văn]], [[thủy văn nước mặt]], [[địa chất thủy văn]], quản lý [[lưu vực sông]] và [[chất lượng nước]], những nơi mà nước đóng vai trò chủ đạo. [[Hải dương học]] và [[khí tượng học]] không được baoxếp gồm trong lĩnh vực củavào thủy văn học bởi vì nước chỉ là một trong rất nhiều nhữngđối tượng khíanhiên cạnhcứu quan trọng của chúng.
 
Các nghiên cứu thủy văn là rất hữu ích vì chúng cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về thế giới chúng ta sống và cũng như cung cấp những hiểu biết sâu sắc hơn về [[khoa học môi trường]], [[chính sách môi trường|chính sách]] và [[hoạch định môi trường]].
 
==Lịch sử==
Thủy văn học đã là đối tượng nghiên cứu và đã được ứng dụng trong hàng thiên niên kỷ. Ví dụ,Như vào khoảng năm 4000 B.C.{{Cần chú thích}} [[Sông Nile]] đã được xây đập để tăng năng suất nông nghiệp của các vùng đất cằn cỗi trước đó. Các thị trấn [[Lưỡng Hà]] đã được bảo vệ khỏi lũ lụt bằng các tường đất cao. Các [[ống dẫn nước]] được [[Hy Lạp cổ đại|Hy Lạp]] và [[La Mã cổ đại|La Mã]] xây dựng, trong khi đó [[Lịch sử Trung Quốc|Trung Quốc]] cũng đã xây dựng các công trình dẫn nước và kiểm soát lũ lụt. Người [[Sri Lanka]] cổ đã sử dụng thủy văn học để xây dựng các [[công trình tưới tiêu của Sri Lanka cổ đại]], được biết tới như là sự phát minh ra van Pit, từ đó có thể xây dựng được các hồ chứa lớn, đập nước và kênh đào mà tới ngày nay vẫn hoạt động.{{Cần chú thích}}
 
[[Marcus Vitruvius]], sống ở thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, đã mô tả một học thuyết triết học{{Cần chú thích}} về vòng tuần hoàn nước, trong đó giáng thủy rơi trên các ngọn núi thâm nhập vào bề mặt Trái đất và hướng tới sông, suối ở những vùng đất thấp hơn. Với một phương pháp khoa học hơn, [[Leonardo da Vinci]] và [[Bernard Palissy]] đã mô tả chính xác hơn về vòng tuần hoàn nước một cách độc lập với nhau. Cho tới tận thế kỷ 17 khi mà người ta bắt đầu xác định số lượng các biến thủy văn thì vòng tuần hoàn nước mớicàng được trình tảbày chính xác hơn nữa.
 
Những người tiên phong trong khoa học thủy văn hiện đại, bao gồm [[Pierre Perrault]], [[Edme Mariotte]], và [[Edmund Halley]]. Bằng cách đo lượng mưa, dòng chảy mặt, và diện tích lưu vực, Perrault đã cho thấy lượng mưa có đủ khả năng để giải thích cho dòng chảy của [[sông Seine]]. Marriotte kết hợp các phép đo về vận tốc và mặt cắt ngang sông để thu được dòng xả của sông Seine. Halley đã cho thấy lượng bốc hơi của [[Địa Trung Hải]] đủ để giải thích cho dòng chảy từ sông ra biển.
Dòng 17:
Các phân tích khoa học đã bắt đầu thay thế chủ nghĩa kinh nghiệm trong thế kỷ 20, trong khi đó các cơ quan thuộc chính phủ bắt đầu thực hiện các chương trình nghiên cứu thủy văn của chính họ. Đặc biệt quan trọng là [[đường đơn vị (thủy văn)|biểu đồ thủy văn đơn vị]] của [[Leroy Sherman]], lý thuyết thấm của [[Robert E. Horton]], và [[phương trình Theis]] mô tả thủy lực học giếng khoan.
 
Từ [[thập niên 1950]], thủy văn học được tiếp cận với nhiều học thuyết cơ sở hơn so trongvới quá khứ, nó được thừa hưởng các thành quả tiến bộ của vật lý, nhờ đó hiểu được các tiến trình thủy văn với bằngsự giúp sức của công cụ [[máy tính]].
 
==Vòng tuần hoàn nước==
{{main|Vòng tuần hoàn nước}}
 
Chủ đề chính của thủyvòng văntuần họchoàn nước là nước di chuyển vòng quanhtrên Trái Đất bằng các con đường khác nhau, với các tốc độ khác nhau. Hìnhtheo ảnhmột sinhvòng độngkhép củakín điềukhông này điểm hơiđầu nướchay điểm cuối. Nước từ đại dương bốc hơi tạo nên các đám mây. Các đám mây này trôikhi dạtbay vào đất liền và sinh ra mưa. Nước mưa chảy vào các hồ chứa, các con sông, hoặc các tầng ngậm nước. Sau đó, nước trong các hồ chứa, các con sông và các tầng ngậm nước bốc hơi trở lại bầu khí quyển hoặc thậm chí là chảy ngượcra lại đại dương, kết thúc một vòng tuần hoàn.
 
==Các ngành của thủy văn học==
Dòng 52:
==Các thiết bị đo đạc trong thủy văn==
 
Chuyển động của nước trên Trái đất có thể được đo đạc theo một số cách. Các thôngsố tinliệu này rất quan trọng cho cả việc đánh giá tài nguyên nước và hiểu được các tiến trình tham gia vào vòng tuần hoàn nước. Sau đây là một danh sách của các thiết bị được sử dụng bởi cácCác nhà thủy văn học thường dùng các thiết bị họ sử dụngsau để đo đạc.:
 
* [[Disdrometer]] - Đo các đặc điểm của giáng thủy
Dòng 68:
==Dự báo thủy văn==
 
Các quan trắc về các tiến trình thủy văn được sử dụng đểlàm tạo nênsở cho các dự báo về xu hướng chuyển động của nướcsốkhối lượng nước trong tương lai.
 
===Thống kê trong thủy văn===
 
Bằng cách phân tích các đặc điểm [[thống kê]] của chuỗi số liệu thủy văn, ví dụ như lượng mưa hoặc lưu lượng của sông, nhà thủy văn học có thể ước tính các hiện tượng thủy văn trong tương lai. Tuy nhiên nóvới giả thiết rằng các đặc điểm của các quá trình là không thay đổi.
 
Đối với các [[kỹ sư]] và [[nhà kinh tế học]], những ước tính này quan trọng đến nỗi việc thực hiện [[phân tích rủi ro]] thuần túy có thể tác động đến các quyết định đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong tương lai và để xác định dòng chảy bền vững, một đặc điểm của các hệ thống cung cấp nước. Các thông tin thống kê được sử dụng để thiết lập các [[quy tắc điều tiết]] cho các [[hồ chứa]] lớn, một phần của các hệ thống mà trong đó bao gồm nhu cầu sử dụng nước [[nông nghiệp]], [[công nghiệp]] và [[dân cư]].