Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Frans Eemil Sillanpää”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 1:
{{Infobox Writer
| name = Frans Eemil Sillanpää
| image = FransEemilSillanp.jpg
| bgcolour = silver
Dòng 7:
| pseudonym =
| birth_date = [[16 tháng 6]] năm [[1888]]
| birth_place = [[Hämeenkyrö]], [[
| death_date = [[3 tháng 6]] năm [[1964]]
| death_place =
Dòng 26:
| footnotes =
}}
{{Người đoạt giải Nobel|tên=Sillanpää, Frans
'''Frans Eemil Sillanpää''' (16 tháng 9 năm 1888 – 3 tháng 6 năm 1964) là [[nhà văn]] [[Phần Lan]] đoạt [[giải Nobel Văn học]] năm 1939.
==Tiểu sử==
Frans Sillanpää sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, thuộc xứ đạo [[Hämeenkyrö]]. Cuộc sống vất vả khiến bố mẹ ông chỉ có thể nuôi ông ăn học trong 5 năm đầu tại trường trung học [[Tampere]], 3 năm sau đó ông phải tự kiếm tiền để học tiếp. Năm 1908, ông đỗ vào [[Đại học Helsinki]], ngành sinh vật học, với số điểm loại ưu. Nhưng chỉ theo học được một thời gian ngắn, ông đã phải bỏ, về nhà mở cửa hàng văn phòng phẩm kiếm sống. Ở nhà, ông bắt đầu viết truyện và ngay từ truyện ngắn đầu tiên, ông đã được tổng biên tập một tờ báo lớn đánh giá cao và mời cộng tác. Tiểu thuyết đầu tay của ông là ''Elämä ja aurinko'' (Cuộc sống và mặt trời
Cuối đời ông viết nhiều tiểu luận và hồi ký tự thuật.
Trong các tác phẩm của mình, Frans Sillanpää luôn khẳng định sức mạnh bản năng và tư tưởng thần bí, bi quan. Năm 1936, ông được
Frans Sillanpää được toàn thể nhân dân
▲Trong các tác phẩm của mình, Frans Sillanpää luôn khẳng định sức mạnh bản năng và tư tưởng thần bí, bi quan. Năm 1936, ông được [[Đại học Helsinki]] trao bằng Tiến sĩ Danh dự và năm 1939 được [[Viện Hàn lâm]] [[Thụy Điển]] trao [[giải Nobel]]. Do chiến tranh, buổi lễ trao giải không tổ chức được nhưng ông đã nhận bằng trong một cuộc họp của Viện Hàn lâm Thụy Điển vào tháng 12 năm 1939. Thời gian này, sức khỏe của ông giảm sút, ông rơi vào trạng thái trầm cảm nặng vì vợ mất và đất nước bị chiến tranh tàn phá, phải điều trị tại bệnh viện tâm thần đến năm 1943. Tác phẩm cuối cùng của ông là bộ hồi kí gồm ba cuốn xuất bản từ năm 1953 đến năm 1956.
▲Frans Sillanpää được toàn thể nhân dân [[Phần Lan]] yêu quý, ông thường được mời phát biểu trên đài phát thanh. Ông mất ở [[Helsinki]] năm 66 tuổi.
==Tác phẩm==
*''Elämä ja aurinko'' (Cuộc sống và mặt trời
*''Ihmislapsia elämän saatossa'' (Những con người trong đường đời
*''Hurskas kurjuus'' (Cái nghèo thanh cao
*''Rakas isänmaani'' (Tổ quốc yêu dấu
*''Hiltu
*''Enkelten suojatit'' (Sự bảo trợ của các thiên thần
*''Omistani ja omilleni'' (Về chính tôi và cho chính tôi
*''Maan tasalta'' (Từ độ cao của Trái Đất
*''Töllinmäki'' (Ngọn đồi ổ chuột
*''Rippi'' (Xưng tội
*''Kiitos hetkistä, Herra...'' (Cám ơn Chúa đến đúng lúc
*''Nuorena nukkunut'' (Thiếu nữ chết trẻ
*''Miehen tie'' (Con đường của người đàn ông
*''Virran pohjalta'' (Dưới đáy sông
*''Ihmiset suviyössä'' (Những người trong đêm hè
*''Viidestoista'' (Thứ mười lăm
*''Elokuu'' (Tháng Tám
*''Ihmiselon ihanuus ja kurjuus'' (Hạnh phúc và đau khổ của đời người
*''Poika eli elämäänsä'' (Cậu bé đã sống cuộc đời mình
*''Kerron ja kuvailen'' (Tôi kể chuyện và tôi mô tả
*''Päiva korkeimmillaan'' (Ngày cực điểm
==Liên kết ngoài==
{{Người được giải Nobel Văn học 1926-1950}}
{{DEFAULTSORT:Sillanpää,
{{Thời gian sống|sinh=1888|mất=1964|tên=
[[Thể loại:Nhà văn Phần Lan]]
[[Thể loại:Người đoạt giải Nobel Văn chương]]
[[ar:غرانس اميل سيلانبا]]
|