Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trương Khiên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Meotrangden (thảo luận | đóng góp)
Không có tóm lược sửa đổi
nKhông có tóm lược sửa đổi
Dòng 28:
Lần này không bị Hung Nô ngăn trở, đoàn sứ giả đến Ô Tôn một cách thuận lợi. Tuy được Ô Tôn vương Côn Mạc chào đón và tiếp nhận lễ vật, nhưng người Ô Tôn lấy cớ Hán xa Hung gần, lại không rõ nhà Hán mạnh yếu thế nào, nên từ chối quay về phía đông, khiến cho mục đích đi sứ không thành. Sau đó, Trương Khiên phái các phó sứ cầm cờ tiết đi đến các nước láng giềng của Ô Tôn là Đại Uyển, Khang Cư, Đại Nguyệt Chi, Đại Hạ, An Tức, Quyên Độc, Vu Điền tiến hành hoạt động ngoại giao.
 
Năm Nguyên Đỉnh thứ 2 (115 TCN), Trương Khiên quay về, mang theo vài mươi sứ giả Ô Tôn đi theo tìm đường đến nhà Hán và vài mươi thớt ngựa tốt của Ô Tôn. Ông được phong làm “đại hành”, vị liệt vào “cửu khanh”. Năm sau (114 TCN), Trương Khiên qua đời, Hán Vũ đế vì muốn kỷ niệm ông, những sứ giả đi sứ Tây vựcVực về sau đều được gọi là “Bác Vọng hầu”.
 
==Đánh giá==
Trương Khiên 2 lần đi sứ, Tây Vực, vượt muôn trùng hiểm nguy, ở lần đầu tiên, hơn trăm người đi chỉ còn 2 người trở về. Dựa vào con đường mà ông tìm ra, chính là “con đương Tơ Lụa” nổi tiếng, các thương nhân Đông – Tây đi lại buôn bán, nên người Trung Quốc mới biết đến [[ngựa Hãn Huyết]], [[Nho|bồ đào]], [[Chi Linh lăng|mục túc]], [[Thạch lựu|thạch lựu]], [[hồ đào]], [[Vừng|hồ ma]],... Công lao của ông được [[Sử ký]] ca ngợi là '''tạc không''' (nghĩa là mở mang đường lối cho thông suốt).
 
Việc làm của Trương Khiên đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử giao lưu với các dân tộc khác của người Trung Quốc, xé toang truyền thống xã hội “phong bế tự bảo”. Ông gặp nguy khó không đánh mất khí tiết, không rời bỏ nhiệm vụ, được [[Lương Khải Siêu]] ca ngợi “''kiên nhẫn lỗi lạc kì nam tử, thế giới sử khai mạc đệ nhất nhân''”.