Khác biệt giữa bản sửa đổi của “North Carolina (lớp thiết giáp hạm)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 63:
== Thiết kế ==
=== "A" đến "M" ===
Ủy ban Tướng lĩnh bắt đầu chuẩn bị cho một lớp thiết giáp hạm mới vào [[tháng 5]]–[[tháng 7]] năm [[1935]]. Ba nghiên cứu thiết kế được đưa ra trình bày: "A" sẽ có trọng lượng rẽchoán nước 32.150 tấn{{convert|32150|LT|t|abbr=on}}, trang bị chín pháo 356 {{convert|14|in|mm (14 inch)|0|adj=on}} trên ba [[tháp súngpháo]] ba nòng, tất cả đều đặtđược bố trí trước [[cầu tàu]], có tốc độ tối đa 55,5{{convert|30|kn|mph km/h (30 knot)}} và vỏ giáp có thể chịu được đạn pháo 356 {{convert|14|in|mm (14 inch);|0|adj=on}}. "B" và "C" sẽ trên 36.000trọng tấnlượng choán nước trên {{convert|36000|LT|t|abbr=on}}, có thể đạt 56tốc độ tối đa {{convert|30,5|kn|mph km/h (30,5 knot)}} và vỏ giáp chịu đựng đạn pháo 356 mm (14 inch),; khác biệt chính giữa hai thiết kế này là dàn pháo chính, khicủa thiết kế "B" có mười hai khẩu 356 {{convert|14|in|mm (14 inch)|0|adj=on}} trên các tháp pháo ba nòng, trong khi thiết kế "C" có tám khẩu [[Hải pháo 406 mm (16 inch)/45 caliber Mark 6|406 mm ({{convert|16 inch)|in|mm|0|adj=on}}/45 caliber]] trên các tháp pháo nòng đôi. "A" là thiết kế duy nhất nằm trong giới hạn 35.000 tấn{{convert|35000|LT|t|adj=on|abbr=on}} của Hiệp ước Hải quân Washington vốn được tái xác nhận trong Hiệp ước Hải quân London thứ hai. Khi [[Văn phòng Đạn dược]] giới thiệu kiểu đạn pháo mới 40616 mminch (16406 inchmm) "siêu nặng", các kiểu trên được tái thiết kế thành "A1", "B1" và "C1" nhằm tìm cách bảo vệ chống lại loại đạn pháo mới, Nhưngnhưng điều này lại ảnh hưởng nặng nề cho trọng lượng rẽchoán nước: "A1" chỉ còn cách {{convert|500 tấn|LT|t|abbr=on|adj=on}} bên dưới mức giới hạn 35.000 tấn, trong khi hai kiểu kia lên đến gần 40.000 tấn{{convert|40000|LT|t|abbr=on|adj=on}}.<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=244.}}</ref>
 
Cho dù những nghiên cứu ban đầu này đều là những [[thiết giáp hạm nhanh]], Ủy ban Tướng lĩnh chưa dứt khoát theo xu hướng tốc độ tối đa lớn hơn. Họ đặt ra những câu hỏi dành cho [[Học viện Chiến tranh Hải quân]], muốn biết quan điểm về lớp tàu mới sẽ là một chiếc "thông thường" tốc độ 42,6{{convert|23|kn|mph km/h (23 knot)|adj=on}} với dàn pháo chính gồm tám-chín khẩu pháo 406 mm (16 inch), hay là một trong các kiểu "A", "B" hoặc "C"?<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=248.}}</ref>
 
Năm nghiên cứu thiết kế khác được thực hiện vào cuối [[tháng 9]] mang tên từ "D" đến "H"; chúng có đặc tính tốc độ tối đa 42,6-56,5từ {{convert|23|kn|mph km/h}} (23–30đến {{convert|30,5|kn|mph knot)km/h}}, mang tám hoặc chín pháo 356 {{convert|14|in|mm (14 inch)|0|adj=on}} hay 406 mm ({{convert|16 inch)|in|mm|0|adj=on}}, và một trọng lượng rẽchoán nước tiêu chuẩn giữatừ 31.500{{convert|31500|LT|t|abbr=on}} đến 40.500 tấn{{convert|40500|LT|t|abbr=on}}. "D" và "E" là những dự định về một thiết giáp hạm nhanh mang pháo 406 mm (16 inch) và được bảo vệ chống cỡ pháo tương đương, nhưng trọng lượng rẽ nước của chúng lớn hơn mức mà Hiệp ước Hải quân Washington cho phép. "F" là một nỗ lực căn bản về một kiểu thiết giáp hạm lai tàu sân bay, với ba [[máy phóng máy bay|máy phóng]] trước mũi và tám khẩu 356 {{convert|14|in|mm (14 inch)|0|adj=on}} phía đuôi tàu. Người ta cho rằng kiểu này đã được [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống]] [[Franklin D. Roosevelt|Franklin Delano Roosevelt]] ưa chuộng, nhưng vì tính năng của [[thủy phi cơ]] phóng lên từ máy phóng kém hơn đa số máy bay từ tàu sân bay hay từ đất liền do sức cản của các phao nổi mang theo, nó đã không được tiếp tục phát triển. "G" và "H" là những con tàu chậm hơn chỉ đạt 42,6{{convert|23|kn|mph km/h (23 knot)}} và chín khẩu 356 mm ({{convert|14 inch)|in|mm|0|adj=on}}; đặc biệt kiểu "H" được cho là một thiết kế khá cân bằng được phát triển bởi bộ phận Thiết kế Sơ thảo của [[Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa]]. Tuy nhiên, giờ đây Ủy ban Tướng lĩnh ưa chuộng "những con tàu nhanh, đa mục đích", mà "G" và "H" không đáp ứng được.<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=246–250.}}</ref>
[[Tập tin:USS North Carolina overhead.jpg|nhỏ|trái|Thiết giáp hạm ''North Carolina'' nhìn từ trên không, ngày [[17 tháng 4]] năm [[1942]]|alt=A large battleship steams through choppy seas. Three floatplanes are located on the stern.]]
Những nghiên cứu này đã trình bày sự khó khăn mà các nhà thiết kế phải đối mặt. Trong phạm vi trọng lượng rẽchoán nước 35.000 tấn, có hai lựa chọn căn bản: một con tàu tương tự như "A1" vốn nhanh hơn 55,5 km/h (30 knot), nhưng trang bị hỏa lực và vỏ giáp nhẹ hơn so với thiết giáp hạm đương thời; hoặc một chiếc chậm hơn nhưng được trang bị pháo lớn hơn, cho dù trang bị vỏ giáp bảo vệ chống lại đạn pháo 406 {{convert|16|in|mm (16 inch)|0|adj=on}} là cực kỳ khó. Bộ phận Thiết kế Sơ thảo tiếp tục thêm năm nghiên cứu khác vào [[tháng 10]]: "J", "J1", "K", "L" và "M", tất cả đều dựa trên kiểu "A" với vỏ giáp tăng cường thêm hoặc một phiên bản kiểu "B" thu nhỏ lại; đều sử dụng pháo 356 {{convert|14|in|mm (14 inch)|0|adj=on}} và đạt được tốc độ 55,5-56,5từ {{convert|30|kn|mph km/h}} (30-đến {{convert|30,5|kn|mph knot)km/h}}. Hai kiểu đầu tiên có bốn tháp pháo, nhưng người ta có cảm giác rằng sắp xếp như vậy quá nặng và đòi hỏi một lượng vỏ giáp không thể chấp nhận được. "K" là sự phát triển từ "A1" như được nêu ở trên, có [[đai giáp]] chính dày 381 {{convert|15|in|mm (15 inch)|adj=on}} và vỏ giáp sàn tàu 133 mm ({{convert|5,25 inch)|in|mm|adj=on}}, có được [[vùng miễn nhiễm]] trong phạm vi từ 17,4{{convert|19000|yd|mi km|abbr=on}} đến 27,4{{convert|30000|yd|mi km (19.000–30.000 yard)|abbr=on}} chống đỡ lại loại đạn pháo "siêu nặng" 356 mm (14 inch). Trong khi kiểu "K" được nội bộ Hải quân ưa chuộng, trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn 35.000 tấn như thiết kế dành quá ít chỗ cho những sai số hay mọi thay đổi hoặc cải tiến cho thiết kế trong tương lai. Cả kiểu "L" và "M" đều sử dụng tháp pháo bốn nòng để tiết kiệm trọng lượng tương tự như thiết giáp hạm Pháp [[Dunkerque (thiết giáp hạm Pháp)|''Dunkerque'']] trong khi vẫn mang 12 khẩu pháo; điểm khác biệt duy nhất là "M" tiết kiệm được {{convert|200 tấn|LT|t|abbr=on}} bằng cách có một tháp pháo phía sau thay vì cả ba tháp pháo đều hướng ra trước. Thay đổi về thiết kế này khiến lớp vỏ giáp sàn tàu tăng lên 121 mm ({{convert|4,75 inch)|in|mm|adj=on}} thay vì chỉ là 114 mm ({{convert|4,5 inch)|in|mm|adj=on}} trên kiểu "L". Việc cắt giảm nhiều phần trên vỏ giáp được chấp nhận để đảm bảo thiết kế ở bên dưới giới hạn cho phép của Hiệp ước; nhưng ngay cả như vậy, cả hai thiết kế đều xấp xỉ giới hạn, và kiểu "L" bị vượt hơn giới hạn {{convert|45 tấn|LT|t|abbr=on}}.<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=247, 250–251.}}</ref>
 
Nhiều sĩ quan thuộc Hải quân Hoa Kỳ ủng hộ việc đóng ba hoặc bốn chiếc kiểu [[tàu chiến-tuần dương]] để hộ tống các tàu sân bay và đối phó với [[Kongō (lớp thiết giáp hạm)|lớp tàu chiến-tuần dương ''Kongō'']] của Nhật Bản. Trong số những người này có Quyền [[Bộ trưởng Hải quân Hoa Kỳ|Bộ trưởng Hải quân]] và [[Trưởng phòng tác chiến Hải quân]] Đô đốc [[William Harrison Standley|William Standley]], Chủ tịch Học viện Chiến tranh Hải quân [[William S. Pye]], một nhóm nhỏ các sĩ quan cao cấp tại các hạm đội, và năm hay sáu sĩ quan chịu trách nhiệm về kế hoạch chiến lược của [[Phòng Kế hoạch Chiến tranh]], mặc dù có ít nhất một sĩ quan tin rằng một cuộc không kích vẫn có khả năng đánh chìm được những chiếc ''Kongo''. Với tất cả các khuyến cáo trên, Ủy ban Tướng lĩnh chọn kiểu "K" để tiếp tục phát triển.<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=251–252.}}</ref>
 
Có ít nhất 35 thiết kế khác nhau được đề nghị, tất cả đều được đánh [[số La mã]], trong đó năm thiết kế đầu tiên từ "I" đến "V", những biến thể dựa trên "K", được hoàn tất vào ngày [[15 tháng 11]] năm [[1935]]. Chúng là những kiểu đầu tiên áp dụng tiết kiệm trọng lượng "trên giấy": không tính đến một số thành phần trong giới hạn 35.000 tấn vốn không được quy định cụ thể trong định nghĩa về [[trọng lượng rẽchoán nước tiêu chuẩn]]. Trong trường hợp này, mặc dù được thiết kế chỗ chứa cho 100 quả đạn pháo cho mỗi khẩu pháo chính và thêm 100 quả đạn dự trữ, trọng lượng của chính các quả đạn không được tính vào giới hạn bắt buộc của hiệp ước.<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=252.}}</ref>
 
=== "I" đến "XVI-D" ===
[[Tập tin:USS North Carolina fires over bow.jpg|nhỏ|phải|''North Carolina'' bắn một loạt từ ba khẩu pháo của tháp pháo số 1|alt=Six large guns in two turrets are aimed directly forward; the far trio are elevated extremely high and have a large amount of smoke emanating from them]]
Thiết kế "I" đến "XVI-D" khác nhau đáng kể về mọi khía cạnh ngoại trừ trọng lượng rẽ nước tiêu chuẩn và tốc độ. Thiết kế "II" có trọng lượng rẽchoán nước 35.743 tấn{{convert|35743|LT|t|abbr=on}}, mọi thiết kế khác đều là 35.000 tấn, và chỉ có năm thiết kế dự định một tốc độ tối đa thấp hơn 50{{convert|27|kn|mph km/h (27 knot)}}; trong đó, chỉ có một thiết kế thấp hơn 49 km/h ({{convert|26,5|kn|mph knot)km/h}}: thiết kế "VII", với tốc độ 40,7{{convert|22|kn|mph km/h (22 knot)}}. Thiết kế "VII" quay trở lại một tốc độ chậm hơn để có được sự bảo vệ và hỏa lực mạnh hơn, với mười hai khẩu pháo 356 {{convert|14|in|mm (14 inch)|0|adj=on}} trên các tháp pháo ba nòng; và như vậy thiết kế này chỉ đòi hỏi một công suất động cơ 50.000 mã lực{{convert|50000|shp|MW}}{{#tag:ref|Yêu cầu về công suất thấp hơn tiếp theo là "X-A", "XI-A" và "XI-B", với 112.500 mã lực.<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=254-255.}}</ref>|group=N}} và một chiều dài chỉ có 195 m ({{convert|640 |ft)|m|abbr=on}}. Đa số các thiết kế khác đề nghị một chiều dài 216,4 m ({{convert|710 |ft)|m|abbr=on}} hoặc 221 m ({{convert|725 |ft)|m|abbr=on}}, cho dù có sáu thiết kế có chiều dài thay đổi giữa 201 m ({{convert|660 |ft)|m|abbr=on}}210 m ({{convert|690 |ft)|m|abbr=on}}. Tám thiết kế đầu tiên ("I"–"IV-C") mang chín khẩu pháo 355 mm ({{convert|14 inch)|in|mm|0|adj=on}}, nhưng cũng có nhiều phương án kháckết hợp nhữngkhác được đề xuất, bao gồm cấu hình tám khẩu 356 mm (14 inch) trên hai tháp pháo bốn nòng, thiết kế "V" thậm chí có hai tháp pháo bốn nòng 406 mm (16 inch), hoặc tám khẩu 356 mm (14 inch) trên bốn tháp pháo nòng đôi trên thiết kế "VIA" và "VIB", và mười, mười một và mười hai khẩu pháo 356 mm (14 inch). [[Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa]] lưu ý với sự bực bội rằng họ được yêu cầu thiết kế một con tàu tương đương với chiếc [[tàu chiến-tuần dương]] [[HMS Hood (51)|HMS ''Hood'']] của Anh Quốc nhưng với một trọng lượng rẽ nước thấp hơn 5.000 tấn. Đây là kết quả của việc một số giới hạn an toàn thông thường bị hạ thấp hay loại bỏ hẳn, cùng với các vấn đề khác.<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=254–255, 259.</ref>
 
Phiên bản "XVI" vào ngày [[20 tháng 8]] năm [[1936]] là một con tàu dài 217,6 m ({{convert|714 |ft)|m|abbr=on}} đạt được tốc độ 50{{convert|27|kn|mph km/h (27 knot)}}, mà Văn phòng Đạn dược đã chỉ ra nhiều vấn đề nghiêm trọng. Các thử nghiệm trên mô hình cho thấy ở tốc độ cao, các cơn sóng phát sinh từ thiết kế của lườn tàu khiến cho nhiều phần thấp của con tàu bị thấm nước bao gồm cả hầm đạn. Vấn đề càng thêm phức tạp khi Văn phòng này khám phá ra những quả đạn pháo bắn trúng thấp hay bên dưới mực nước có thể gây ra vấn đề lớn khi tác chiến ở khoảng cách từ 18,3{{convert|10|nmi|mi km|abbr=on}} đến 27,4{{convert|15|nmi|mi km (20.000-30.000 yard)|abbr=on}}. Những vấn đề khác bao gồm một mối lo ngại về sự bảo vệ chống lại bom ném từ máy bay có thể không thích đáng, vì theo cách nhìn của Văn phòng, công thức dùng để tính toán hiệu quả của chúng là không thực tiễn, và một vách ngăn phía trước được vuốt thon nhọn bên dưới mực nước là một ý tưởng kém do những vấn đề đạn bắn trúng bên dưới mực nước; do đó một mũi tàu hầu như không bọc giáp có thể dễ dàng bị xuyên thủng. Giải pháp cho những vấn đề này hoàn toàn không khả thi; bổ sung thêm các tấm đắp vỏ giáp chung quanh hầm đạn có thể làm vô hiệu hóa hiệu quả của hệ thống phòng thủ chống ngư lôi, còn mở rộng đai giáp sâu hơn gần mũi và đuôi tàu sẽ khiến nó vượt quá giới hạn 35.000 tấn. Ủy ban Tướng lĩnh không ưa thích thiết kế này, cho đó "không phải ... là một thiết giáp hạm thực sự" do những vấn đề về tốc độ và vỏ giáp.<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=261–263.}}</ref>
 
Để khắc phục những vấn đề này, một bộ các thiết kế sau cùng, từ "XVI-B" đến "XVI-D" , được Bộ phận Thiết kế Sơ thảo đưa ra vào [[tháng 10]] năm [[1936]]. Chúng là những cải biến dựa trên thiết kế "XVI" về một con tàu dài 217,6 m ({{convert|714 |ft)|m|abbr=on}}, mang mười hai khẩu pháo {{convert|14 inch|in|mm|0|adj=on}} trên ba tháp pháo bốn nòng, một đai giáp dàynghiêng 28410 mmđộ (dày {{convert|11,2 inch) nghiêng 10 độ|in|mm|1|adj=on}}, và một sàn tàu dày từ 130 đến 142 mm ({{convert|5,1 |- |5,.6 inch)|in|mm|1|adj=on}}. Trong bộ thiết kế sau cùng, chiều dài con tàu được xác định ở 221 m ({{convert|725 |ft)|m|abbr=on}} để có tốc độ nhanh hơn, nhưng chỉ có thể trang bị mười một khẩu pháo 14 inch cùng một đai giáp dày 257 mm ({{convert|10,1 inch)|in|mm|adj=on}}. Thay vào đó, một khẩu pháo có thể đánh đổi lấy đai giáp dày 343 mm ({{convert|13,5 inch)|in|mm|1|adj=on}}, và một chiếc khác có thể chuyểnhy sangsinh để có tốc độ 55,5{{convert|30|kn|mph km/h}} (30 knot) vàcùng tăng thêm một-phần-mười inch cho đai giáp; thiết kế này trở thành thiết kếkiểu "XVI-C". Ủy ban Tướng lĩnh rất ưa chuộng thiết kế "XVI-C" này, xem nó có đủ sự bảo vệ để chiến đấu và sống sót trong một [[hàng chiến trận]] hình thành cùng với các thiết giáp hạm cũ hơn, trong khi vẫn có đủ tốc độ để hoạt động trong một cánhkhi được tách ra độc lập, ví dụ như hộ tống tàu sân bay hay dẫn đầu đội tàu tuần dương [[chiến tranh cướp tàu buôn|cướp tàu buôn]].<ref name ="Friedman263">{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=263.}}</ref>
 
Tuy nhiên, một thành viên của Ủy ban, Đô đốc [[Joseph M. Reeves|Joseph Reeves]], người từng là một trong các nhà phát triển chủ chốt cho chiến lược tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, không thích "XVI-C" vì ông tin rằng nó không đủ nhanh để hoạt động cùng với các tàu sân bay có tốc độ 61{{convert|33|kn|mph km/h (33 knot)|adj=on}}, và không đủ mạnh mẽ để biện minh cho chi phí. Thay vào đó, ông tán thành một phiên bản phát triển từ thiết kế "XVI" đã bị từ chối trước đó, bổ sung thêm sự bảo vệ dưới nước và các tấm thép vỏ giáp bên trong lườn tàu để làm cho các hầm đạn có thể miễn nhiễm với đạn pháo bắn đến bên trên và bên dưới mực nước từ khoảng cách 17{{convert|9,45|nmi|mi km (19.000 yard)|abbr=on}} hay xa hơn. Giới hạn ngoài của vùng miễn nhiễm được tăng từ 25,8{{convert|14|nmi|mi km (28.200 yard)|abbr=on}} lên 27,4{{convert|15|nmi|mi km (30.000 yard)|abbr=on}}. Sau các thay đổi khác, Reeves tiếp xúc với Đô đốc [[William Harrison Standley|William Standley]], Trưởng phòng Tác chiến Hải quân, người đã chấp thuận thiết kế "XVI" dưới dạng được cải biến mới nhất ngoài sự hy vọng của Ủy ban Tướng lĩnh, vốn vẫn chogiữ rằngquan cầnđiểm nên chế tạo theo thiết kế "XVI-C". Bổ sung duy nhất của Standley vào các đặc tính là chuyển từ tháp pháo 14-inch bốn nòng sang tháp pháo {{convert|16-inch|in|mm|0|abbr=on}} ba nòng nếu như có thể viện dẫn đến "Điều khoản Leo thang" trong Hiệp ước Hải quân London thứ hai.<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang|1985|p= 263, 265.</ref><ref>{{Harvnb|McBride, "The Unstable Dynamics of a Strategic Technology", trang |1997|p=416}}</ref><ref>"Treaty for the Limitation of Naval Armament"</ref>
{{quotebox|align=right|width=33%|quote=Vấn đề trong quá trình thiết kế con tàu kéo dài khá lâu và rất thất thường này là, mặc dù người ta có thể nhìn thấy ''North Carolina'' [như được chế tạo] trong nhiều thiết kế này, sự thực không phải như vậy. Ủy ban Tướng lĩnh chưa bao giờ hoàn toàn chắc chắn về những gì cần phải bỏ đi để đạt được một kiểu tàu chiến nào đó trong phạm vi tải trọng bị giới hạn bởi Hiệp ước. Vả lại, khi số thành viên của Ủy ban thay đổi, ý tưởng cũng thay đổi theo. Một tàu chiến chủ lực nhanh với chín pháo và tốc độ 55,5 km/h (30 knot) đồng thời cũng có sự bảo vệ tốt, cuối cùng lại bị từ chối để ưa chuộng một con tàu hy sinh cả tốc độ ''lẫn'' sự bảo vệ đánh đổi lấy hỏa lực, một sự kết hợp chưa từng có trong lịch sử phát triển tàu chiến chủ lực của Hoa Kỳ.<ref>Friedman, ''U.S. Battleships'', trang 262–263.</ref>|source= [[Norman Friedman]]}}
 
{{quotebox|align=right|width=33%|quote=Vấn đề trong quá trình thiết kế con tàu kéo dài khá lâu và rất thất thường này là, mặc dù người ta có thể nhìn thấy ''North Carolina'' [như được chế tạo] trong nhiều thiết kế này, sự thực không phải như vậy. Ủy ban Tướng lĩnh chưa bao giờ hoàn toàn chắc chắn về những gì cần phải bỏ đi để đạt được một kiểu tàu chiến nào đó trong phạm vi tải trọng bị giới hạn bởi Hiệp ước. Vả lại, khi số thành viên của Ủy ban thay đổi, ý tưởng cũng thay đổi theo. Một tàu chiến chủ lực nhanh với chín pháo và tốc độ 55,5 km/h (30 knot) đồng thời cũng có sự bảo vệ tốt, cuối cùng lại bị từ chối để ưa chuộng một con tàu hy sinh cả tốc độ ''lẫn'' sự bảo vệ đánh đổi lấy hỏa lực, một sự kết hợp chưa từng có trong lịch sử phát triển tàu chiến chủ lực của Hoa Kỳ.<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=262–263.}}</ref>|source= [[Norman Friedman]]}}
Tuy nhiên, một thành viên của Ủy ban, Đô đốc [[Joseph M. Reeves|Joseph Reeves]], người từng là một trong các nhà phát triển chủ chốt cho chiến lược tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ, không thích "XVI-C" vì ông tin rằng nó không đủ nhanh để hoạt động cùng với các tàu sân bay có tốc độ 61 km/h (33 knot), và không đủ mạnh mẽ để biện minh cho chi phí. Thay vào đó, ông tán thành một phiên bản phát triển từ thiết kế "XVI" đã bị từ chối trước đó, bổ sung thêm sự bảo vệ dưới nước và các tấm thép vỏ giáp bên trong lườn tàu để làm cho các hầm đạn có thể miễn nhiễm với đạn pháo bắn đến bên trên và bên dưới mực nước từ khoảng cách 17,4 km (19.000 yard) hay xa hơn. Giới hạn ngoài của vùng miễn nhiễm được tăng từ 25,8 km (28.200 yard) lên 27,4 km (30.000 yard). Sau các thay đổi khác, Reeves tiếp xúc với Đô đốc [[William Harrison Standley|William Standley]], Trưởng phòng Tác chiến Hải quân, người đã chấp thuận thiết kế "XVI" dưới dạng được cải biến mới nhất ngoài sự hy vọng của Ủy ban Tướng lĩnh, vốn vẫn cho rằng cần nên chế tạo theo thiết kế "XVI-C". Bổ sung duy nhất của Standley vào các đặc tính là chuyển từ tháp pháo 14-inch bốn nòng sang tháp pháo 16-inch ba nòng nếu như có thể viện dẫn đến "Điều khoản Leo thang" trong Hiệp ước Hải quân London thứ hai.<ref>Friedman, ''U.S. Battleships'', trang 263, 265.</ref><ref>McBride, "The Unstable Dynamics of a Strategic Technology", trang 416</ref><ref>"Treaty for the Limitation of Naval Armament"</ref>
 
=== "Điều khoản Leo thang" ===
Mặc dù [[Hiệp ước Hải quân London thứ hai]] đã quy định rằng cỡ pháo 14 inch là vũ khí lớn nhất có thể trang bị cho mọi tàu chiến, nó lại bao gồm một điều khoản, vốn còn được gọi là "Điều khoản Leo thang", do sự thúc đẩy của các nhà thương thuyết Hoa Kỳ, trong trường hợp nhữngmọi nước từng tham gia ký kết [[Hiệp ước Hải quân Washington]] từ chối không tham gia vào giới hạn mới. Điều khoản này cho phép những nước tham gia Hiệp ước Hải quân London thứ hai: Anh, Pháp và Hoa Kỳ, có thể nâng giới hạn về cỡ pháo từ 14 inch lên 16 inch nếu Nhật Bản hay Ý vẫn từ chối tham gia sau ngày [[1 tháng 4]] năm [[1937]]. Khi đề ra những cấu hình khả thi cho lớp ''North Carolina'', các nhà thiết kế đã tập trung chủ yếu kế hoạch của họ theo hướng vũ khí 14 inch. Yêu cầu của Standley có nghĩa là phải có khả năng để chuyển đổi kiểu vũ khí từ 14 lên 16 inch, ngay cả khi lườn tàu đã được đặt. Nhật Bản đã chính thức từ bỏ giới hạn 14 inch vào ngày [[27 tháng 3]] năm [[1937]], có nghĩa là ''có thể'' viện dẫn đến "Điều khoản Leo thang". Dù sao, vẫn còn nhiều rào cản phải vượt qua: Roosevelt phải chịu đựng những áp lực chính trị mạnh mẽ, và kết quả là rất miễn cưỡng trong việc cho phép sử dụng cỡ pháo 16 inch.<ref name=Muir25/>{{#tag:ref|Áp lực chính trị không chỉ đến từ trong nội bộ nước Mỹ. Khi những tin đồn về việc Hoa Kỳ sẽ trang bị cỡ pháo 16 inch lan đến Nhật Bản vào [[tháng 1]] năm [[1937]], báo chí tại Tokyo lập tức cho đăng tải những tin tức này kèm theo hình ảnh các tàu chiến Mỹ chỉa súng hướng về phía Nhật Bản. Hơn nữa, nếu việc áp dụng "điều khoản leo thang" gây ra một đợt chạy đua vũ trang hải quân toàn cầu khác, tức là các tàu chiến ngày càng to hơn và to hơn, bản thân Hoa Kỳ cũng bị bất lợi ở một trong hai cách: Hoặc là thiết giáp hạm của họ phải được đóng theo kích cỡ giới hạn để đi qua được [[kênh đào Panama]], khiến cho chúng bị tụt lại so với tàu chiến mới của các nước khác; hoặc là chúng phải được thiết kế ngang bằng với tàu chiến của các nước khác, nhưng cũng có nghĩa là chúng phải đi vòng qua [[mũi Horn]] nếu muốn đi qua phía bờ bên kia của Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ.<ref name=Muir25>{{Harvnb|Muir, "Gun Calibers and Battle Zones", trang |1980|p=25.}}</ref>|group=N}}
{{quote|Tôi không sẵn lòng đồng tình với việc Hoa Kỳ sẽ là cường quốc hải quân đầu tiên trang bị pháo cỡ 16 inch. ... Do tầm quan trọng quốc tế của việc Hoa Kỳ không phải là người đầu tiên thay đổi các nguyên tắc được các hiệp ước Washington và London xác lập, tôi cho rằng kế hoạch trang bị cho hai chiếc thiết giáp hạm mới cần được dự địnhtrù [trang bị] ... pháo 14 inch.<ref>Thư của Tổng thống Roosevelt gửi Bộ trưởng Hải quân [[Claude A. Swanson]], 8 tháng 4 năm 1937. Tài liệu lưu trữ của Bí thư Tổng thống, Thư viện Franklin D. Roosevelt. Hyde Park, New York. Được trích dẫn bởi: Muir, trong "Gun Calibers and Battle Zones", trang 25.</ref>}}
Đô đốc Reeves cũng có xu hướng chuộng cỡ vũ khí lớn hơn. Trong một bức thư dài hai trang gửi Bộ trưởng Hải quân [[Claude A. Swanson]] và gián tiếp gửi cho Tổng thống Roosevelt, Reeves tranh luận rằng vấn đề đạn của cỡ pháo 16 inch với lực đâm xuyên vỏ giáp lớn hơn đáng kể có tầm quan trọng lớn lao, trích những ví dụ trong [[trận Jutland]] thời [[ĐệChiến Nhấttrnh thếThế chiếngiới thứ nhất]], khi nhiều thiết giáp hạm có thể chịu đựng mười đến mười hai quả đạn pháo hạng nặng, nhưng các tàu chiến-tuần dương khác bị nổ tung chỉ với từ ba đến bảy phát bắn trúng vì đạn pháo có khả năng xuyên thấu lớp vỏ giáp bảo vệ hầm đạn và tháp pháo. Reeves còn tranh luận rằng cỡ pháo lớn hơn sẽ thuận lợi trong việc áp dụng "phương pháp bắn gián tiếp" lúc đó còn đang được phát triển, Khi máy bay được sử dụng để thông báo tin tức về mục tiêu cho thiết giáp hạm để chúng có thể bắn phá các mục tiêu bên ngoài tầm nhìn hoặc bên kia đường chân trời, vì những thiết giáp hạm mới do các thế lực hải quân nước ngoài đang chế tạo đều sẽ có vỏ giáp dày hơn. Reeves tin rằng nếu cỡ pháo 14 inch được chấp thuận, nó sẽ không có khả năng xuyên thủng lượng vỏ giáp rất dày này, điều mà các quả đạn pháo 16 inch có thể làm được.<ref> Thư của Reeves gửi Swanson, 17 tháng 5 năm 1937. Tài liệu lưu trữ của Bí thư Tổng thống, Thư viện Franklin D. Roosevelt. Hyde Park, New York. Được intrích lạidẫn trongbởi: Muir, trong "Gun Calibers and Battle Zones", trang 26.</ref>
 
Trong một nỗ lực vô vọng cuối cùng, [[Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ|Bộ trưởng Ngoại giao]] trong Nội các của Roosevelt là [[Cordell Hull]] gửi một bức điện vào ngày [[4 tháng 6]] đến Đại sứ Hoa Kỳ tại Nhật Bản [[Joseph Grew]], chỉ thị cho ông ta thông báo là Hoa Kỳ sẽ vẫn chấp nhận một giới hạn pháo 14 inch nếu phía Nhật Bản hành động tương tự. Người Nhật đã trả lời rằng họ không thể chấp nhận điều đó trừ khi số lượng thiết giáp hạm cũng được giới hạn; họ muốn Hoa Kỳ và Anh Quốc đồng ý có số lượng thiết giáp hạm ngang bằng với Nhật Bản, nhưng đây là một điều kiện mà hai nước này không thể đồng ý. Vào ngày [[24 tháng 6]], hai chiếc thiết giáp hạm lớp ''North Carolina'' được đặt hàng với vũ khí 14 inch, nhưng vàođến ngày [[10 tháng 7]], Tổng thống Roosevelt chỉ thị rằng chúng sẽ được trang bị tháp pháo 16 inch ba nòng thay thế.<ref>{{Harvnb|Muir, "Gun Calibers and Battle Zones", trang |1980|p=28 & 35.}}</ref>{{#tag:ref|Sự thay đổi này có nghĩa là Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa phải cải biến thiết kế của lớp ''North Carolina'' để chấp nhận cỡ vũ khí lớn và nặng hơn. Cũng vì lý do đó, trọng tâm dọc của con tàu bị dịch chuyển ra phía trước; và giải pháp cho vấn đề này là phải di chuyển nhiều ngăn bên trong con tàu ra phía trước hai khung, hoặc 2,4 m (8 ft). Việc tổng kết tất cả trọng lượng toàn thể con tàu đã không thể hoàn tất cho đến [[tháng 10]], và việc vạch kế hoạch bổ sung kéo dài cho đến [[tháng 2]], nên Bộ trưởng Hải quân đã cho phép kéo dài thêm một tháng cho thời hạn chế tạo của cả hai con tàu vào ngày [[15 tháng 1]] [[1942]], dời thời hạn ước lượng hoàn tất do Văn phòng Kỹ thuật ước lượng đến ngày [[1 tháng 2]] năm [[1942]].<ref>{{Harvnb|Muir, "Gun Calibers and Battle Zones", trang |1980|p=28 & 34.}}</ref>|group=N}}
{{quote|Tôi không sẵn lòng đồng tình với việc Hoa Kỳ sẽ là cường quốc hải quân đầu tiên trang bị pháo cỡ 16 inch. ... Do tầm quan trọng quốc tế của việc Hoa Kỳ không phải là người đầu tiên thay đổi các nguyên tắc được các hiệp ước Washington và London xác lập, tôi cho rằng kế hoạch trang bị cho hai chiếc thiết giáp hạm mới cần được dự định [trang bị] ... pháo 14 inch.<ref>Thư của Tổng thống Roosevelt gửi Bộ trưởng Hải quân [[Claude A. Swanson]], 8 tháng 4 năm 1937. Tài liệu lưu trữ của Bí thư Tổng thống, Thư viện Franklin D. Roosevelt. Hyde Park, New York. Được trích dẫn bởi: Muir, "Gun Calibers and Battle Zones", trang 25.</ref>}}
 
Đô đốc Reeves cũng có xu hướng chuộng cỡ vũ khí lớn hơn. Trong một bức thư dài hai trang gửi Bộ trưởng Hải quân [[Claude A. Swanson]] và gián tiếp gửi cho Tổng thống Roosevelt, Reeves tranh luận rằng vấn đề đạn của cỡ pháo 16 inch với lực đâm xuyên vỏ giáp lớn hơn đáng kể có tầm quan trọng lớn lao, trích những ví dụ trong [[trận Jutland]] thời [[Đệ Nhất thế chiến]], khi nhiều thiết giáp hạm có thể chịu đựng mười đến mười hai quả đạn pháo hạng nặng, nhưng các tàu chiến-tuần dương khác bị nổ tung chỉ với từ ba đến bảy phát bắn trúng vì đạn pháo có khả năng xuyên thấu lớp vỏ giáp bảo vệ hầm đạn và tháp pháo. Reeves còn tranh luận rằng cỡ pháo lớn hơn sẽ thuận lợi trong việc áp dụng "phương pháp bắn gián tiếp" lúc đó còn đang được phát triển, Khi máy bay được sử dụng để thông báo tin tức về mục tiêu cho thiết giáp hạm để chúng có thể bắn phá các mục tiêu bên ngoài tầm nhìn hoặc bên kia đường chân trời, vì những thiết giáp hạm mới do các thế lực hải quân nước ngoài đang chế tạo đều sẽ có vỏ giáp dày hơn. Reeves tin rằng nếu cỡ pháo 14 inch được chấp thuận, nó sẽ không có khả năng xuyên thủng lượng vỏ giáp rất dày này, điều mà các quả đạn pháo 16 inch có thể làm được.<ref> Thư của Reeves gửi Swanson, 17 tháng 5 năm 1937. Tài liệu lưu trữ của Bí thư Tổng thống, Thư viện Franklin D. Roosevelt. Hyde Park, New York. Được in lại trong: Muir, "Gun Calibers and Battle Zones", trang 26.</ref>
 
Trong một nỗ lực vô vọng cuối cùng, [[Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ|Bộ trưởng Ngoại giao]] trong Nội các của Roosevelt là [[Cordell Hull]] gửi một bức điện vào ngày [[4 tháng 6]] đến Đại sứ Hoa Kỳ tại Nhật Bản [[Joseph Grew]], chỉ thị cho ông ta thông báo là Hoa Kỳ sẽ vẫn chấp nhận một giới hạn pháo 14 inch nếu phía Nhật Bản hành động tương tự. Người Nhật đã trả lời rằng họ không thể chấp nhận điều đó trừ khi số lượng thiết giáp hạm cũng được giới hạn; họ muốn Hoa Kỳ và Anh Quốc đồng ý có số lượng thiết giáp hạm ngang bằng với Nhật Bản, nhưng đây là một điều kiện mà hai nước này không thể đồng ý. Vào ngày [[24 tháng 6]], hai chiếc thiết giáp hạm lớp ''North Carolina'' được đặt hàng với vũ khí 14 inch, nhưng vào ngày [[10 tháng 7]], Tổng thống Roosevelt chỉ thị rằng chúng sẽ được trang bị tháp pháo 16 inch ba nòng thay thế.<ref>Muir, "Gun Calibers and Battle Zones", trang 28 & 35.</ref>{{#tag:ref|Sự thay đổi này có nghĩa là Văn phòng Chế tạo và Sửa chữa phải cải biến thiết kế của lớp ''North Carolina'' để chấp nhận cỡ vũ khí lớn và nặng hơn. Cũng vì lý do đó, trọng tâm dọc của con tàu bị dịch chuyển ra phía trước; và giải pháp cho vấn đề này là phải di chuyển nhiều ngăn bên trong con tàu ra phía trước hai khung, hoặc 2,4 m (8 ft). Việc tổng kết tất cả trọng lượng toàn thể con tàu đã không thể hoàn tất cho đến [[tháng 10]], và việc vạch kế hoạch bổ sung kéo dài cho đến [[tháng 2]], nên Bộ trưởng Hải quân đã cho phép kéo dài thêm một tháng cho thời hạn chế tạo của cả hai con tàu vào ngày [[15 tháng 1]] [[1942]], dời thời hạn ước lượng hoàn tất do Văn phòng Kỹ thuật ước lượng đến ngày [[1 tháng 2]] năm [[1942]].<ref>Muir, "Gun Calibers and Battle Zones", trang 28 & 34.</ref>|group=N}}
 
{{Gallery
Hàng 101 ⟶ 99:
|height=130
|lines=12
|Tập tin:North Carolina class scheme A.jpg|alt1=A line drawing of a ship with three gun turrets on the centerline forward, a tall superstructure, and a large funnel at the rear.|Thiết kế "A" 32.250 tấn{{convert|32250|LT|t|adj=on}} là một trong những đề nghị đầu tiên. Không như "B" và "C", nó thấp hơn nhiều so với giới hạn bắt buộc của hiệp ước 35.000 tấn. Nó có dàn pháo chính gồm chín khẩu 355 mm (14 inch), nhưngcho dù tất cả các tháp pháo đều bố trí trước cấu trúc thượng tầng; và vẫn có thể bắn ra phía trước nếu được nâng lên 4,5 độ hoặc lớn hơn. Dàn pháo hạng hai gồm mười hai khẩu 127 {{convert|5|in|mm (5 inch)|adj=on}} bố trí theo cách khác thường trên những tháp pháo ba nòng.<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=244-245.}}</ref>
|Tập tin:North Carolina class scheme F.jpg|alt2=A line drawing of a ship with two stern gun turrets, both on the centerline, and catapults and a crane froward for aircraft|Thiết kế "F" là một nỗ lực theo cách khả thi nhằm kết hợp tàu sân bay và thiết giáp hạm; và rất thoải mái trong phạm vi giới hạn của hiệp ước khi trọng lượng rẽchoán nước tiêu chuẩn chỉ có 31.750{{convert|31750|LT|t tấnST}}. Ba [[máy phóng máy bay|máy phóng]] bố trí trước mũi, và một sàn chứa máy bay bên dưới chứa được mười [[máy bay ném bom]] với cánh xếp lại. Hai tháp pháo không thể [[bắn thượng tầng]] bố trí phía đuôi, mỗi chiếc mangđược bố trí bốn khẩu pháo 355 mm (14 inch).<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=250.}}</ref>
|Tập tin:North Carolina class scheme VII.jpg|alt3=A line drawing of a ship with four gun turrets-two mounted each fore and aft-a large superstructure with two high masts, and a catapult over the third turret.|Thiết kế "VII" quay trở lại thời kỳ thiết giáp hạm chậm; với tốc độ tối đa 40,7{{convert|22|knot|mph km/h (22 knot)}}, chỉ nhanh hơn {{convert|1|knot|mph knotkm/h}} so với "thiết giáp hạm tiêu chuẩn" kiểu cũ. Trọng lượng tiết kiệm được của việc giảm tốc độ được dùng tăng cường hỏa lực và sự bảo vệ: "VII" có mười hai khẩu 355 mm (14 inch)/50 caliber trên bốn tháp pháo ba nòng và một [[vùng miễn nhiễm]] chống lại đạn pháo 14 inch trong khoảng 19,6-27,4 km (21.400-30.000 yard).<ref>{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=258.}}</ref>
|Tập tin:North Carolina class scheme XVI.jpg|alt4=A line drawing of a ship that has three quadruple gun turrets, two in front and one in the rear. In between the turrets are the large conning tower, a tall mast, and a single large smoke stack.|Thiết kế "XVI" là một trong những đề nghị sau cùng; sau khi "XVI-C" bị loại bỏ, một phiên bản cải tiến của thiết kế này đã được chọn cho lớp ''North Carolina''. Có một vài thay đổi lớn giữa kiểuthiết kế này và phiên bản sau cùng. Ví dụ, mọi ống thoát khí được nhập vào hai thay vì một ống khói, và toàn bộ dàn pháo hạng hai 127 mm (5 inch)/38 caliber bố trí trên tháp pháo đôi, không có tháp pháo nòng đơn.<ref name ="Friedman263">{{Harvnb|Friedman, ''U.S. Battleships'', trang |1985|p=263.}}</ref>
}}