Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Cổng thông tin:Cơ Đốc giáo”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TCN (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
TCN (thảo luận | đóng góp)
cập nhật
Dòng 103:
 
<h2 style="padding:3px; background:#738CBF; color:#fff; text-align:center; font-weight:bold; font-size:100%; margin-bottom:5px;margin-top:0;margin-left:-5px;margin-right:-4px;">Tiêu điểm</h2>
Từ cuối thế kỷ 18, những cuộc phục hưng khởi phát trong vòng các giáo phái khác nhau được gọi chung là '''[[Phong trào Tin Lành]]'''.
'''[[Ân điển|Ân điển thiên thượng]]''', theo quan điểm Cơ Đốc, là ân huệ của [[Thiên Chúa]] tể trị nhằm ban phước hạnh cho con người mà không phải vì bởi công đức của họ. Theo nghĩa rộng, ân điển thiên thượng được dùng để chỉ sự ban cho của Thiên Chúa dành cho loài người như sự sống, sự sáng tạo và sự cứu rỗi. Trong nghĩa hẹp và là ý nghĩa phổ biến hơn, ân điển được dùng để miêu tả những phương tiện giúp con người được cứu khỏi [[nguyên tội]] (tội tổ tông) và được ban cho sự [[cứu rỗi]]. Khái niệm này về ân điển là trọng tâm của [[đức tin Cơ Đốc]]...
 
'''[[Ân điển|Xem tiếp]]'''
Đặc điểm của phong trào này là nhấn mạnh vào trải nghiệm qui đạo của mỗi cá nhân, lòng sùng tín và sự chuyên cần nghiên cứu [[Kinh Thánh]]. Họ cũng quan tâm đến các vấn đề đạo đức xã hội như sự tiết độ, các giá trị gia đình, chống chế độ sở hữu nô lệ. Họ bác bỏ tính hình thức trong thờ phụng và trong thần học, cung cấp cho tín hữu (lay people) và phụ nữ những vai trò quan trọng trong thờ phụng, truyền bá phúc âm và giảng dạy. Họ thường sẵn lòng cộng tác với các giáo phái khác trong công cuộc truyền bá phúc âm...
 
Kinh Thánh được xem là thẩm quyền tối hậu và đáng tin cậy trong đức tin và sống đạo. Những học thuyết của cuộc [[Cải cách Kháng Cách]] như Duy Kinh Thánh (''sola scripture'') và Duy Đức Tin (''sola fide'') được xem là trọng tâm (xem [[Năm Tín lý Duy nhất]]). Tính lịch sử của các phép mầu, sự trinh thai, sự đóng đinh, sự phục sinh và sự tái lâm của Chúa Giê-xu được khẳng quyết...
'''[[ÂnPhong điểntrào Tin Lành|Xem tiếp]]'''
<h2 style="padding:3px; background:#738CBF; color:#fff; text-align:center; font-weight:bold; font-size:100%; margin-bottom:5px;margin-top:0;margin-left:-5px;margin-right:-4px;">Trích dẫn Kinh Thánh </h2>
[[Image:Full Book of Isaiah 2006-06-06.jpg|130px|center]]
'''HebrewCorinthians 11: 1-1613'''
 
''Dầu tôi nói được các thứ tiếng loài người và thiên sứ, nếu không có tình yêu thương, thì tôi chỉ như đồng kêu lên hay chập chỏa vang tiếng.''
''Vả, đức tin là sự biết chắc vững vàng những điều mình đương trông mong, là bằng cớ của những điều mình chẳng xem thấy.''
 
''Dầu tôi được ơn nói tiên tri, cùng biết đủ sự mầu nhiệm và mọi sự hay biết; dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được, nhưng không có tình yêu thương, thì tôi chẳng ra gì.''
''Ấy là nhờ đức tin mà các đấng thuở xưa đã được lời chứng tốt.''
 
''Dầu tôi phân phát gia tài để nuôi kẻ nghèo khó, lại bỏ thân mình để chịu đốt, song không có tình yêu thương, thì điều đó chẳng ích chi cho tôi.''
''Bởi đức tin, chúng ta biết rằng thế gian đã làm nên bởi lời của Thiên Chúa, đến nỗi những vật bày ra đó đều chẳng phải từ vật thấy được mà đến.''
 
''Tình yêu thương hay nhịn nhục; tình yêu thương hay nhân từ; tình yêu thương chẳng ghen tị, chẳng khoe mình, chẳng lên mình kiêu ngạo,''
''Bởi đức tin, Abel đã dâng cho Thiên Chúa một tế lễ tốt hơn của Cain, và được xưng công bình, vì Thiên Chúa làm chứng về người rằng Ngài nhậm lễ vật ấy; lại cũng nhờ đó dầu người chết rồi, hãy còn nói.''
 
''chẳng làm điều trái phép, chẳng kiếm tư lợi, chẳng nóng giận, chẳng nghi ngờ sự dữ,''
''Bởi đức tin, Enoch được cất lên và không hề thấy sự chết; người ta không thấy người nữa, vì Thiên Chúa đã tiếp người lên. Bởi chưng trước khi được tiếp lên, người đã được chứng rằng mình ở vừa lòng Thiên Chúa rồi.''
 
''chẳng vui về điều không công bình, nhưng vui trong lẽ thật.''
''Vả, không có đức tin, thì chẳng hề có thế nào ở cho đẹp ý Ngài; vì kẻ đến gần Thiên Chúa phải tin rằng có Thiên Chúa, và Ngài là Đấng hay thưởng cho kẻ tìm kiếm Ngài.''
 
''Tình yêu thương hay dung thứ mọi sự, tin mọi sự, trông cậy mọi sự, nín chịu mọi sự.''
''Bởi đức tin, Noah được Chúa mách bảo cho về những việc chưa thấy, và người thành tâm kính sợ, đóng một chiếc tàu để cứu nhà mình; bởi đó người định tội thế gian, và trở nên kẻ kế tự của sự công bình đến từ đức tin vậy.''
 
''BởiTình đứcyêu tin,thương Abrahamchẳng vânghề lời Chúamất gọi,bao đigiờ. đếnCác xứlời mìnhtiên tri sẽ nhậnhết, làmsự ban nghiệp:cho ngườinói đitiếng lạ sẽ thôi, sự khôngthông biết mìnhhầu đibị đâubỏ.''
 
''Vì chưng chúng ta hiểu biết chưa trọn vẹn, nói tiên tri cũng chưa trọn vẹn;''
''Bởi đức tin, người kiều ngụ trong xứ đã hứa cho mình, như trên đất ngoại quốc, ở trong các trại, cũng như Isaac và Jacob, là kẻ đồng kế tự một lời hứa với người. ''
 
''song lúc sự trọn lành đã đến, thì sự chưa trọn lành sẽ bị bỏ.''
''Vì người chờ đợi một thành có nền vững chắc, mà Thiên Chúa đã xây cất và sáng lập.''
 
''CũngKhi bởitôi đứccòn tin con Sarahtrẻ, dẫutôi nói tuổinhư còncon trẻ, suy sứcxét sanhnhư con cáitrẻ; được,khi tôi ngườiđã tinthành rằngnhân, Đấngbèn đãbỏ hứa cho mìnhnhững điều đóthuộc về thànhcon tíntrẻ.''
 
''Ngày nay chúng ta xem như một cái gương, cách mập mờ: đến bấy giờ chúng ta sẽ thấy hai mặt đối nhau; ngày nay tôi biết chưa hết; đến bấy giờ tôi sẽ biết như Chúa đã biết tôi vậy.''
''Cũng vì đó mà chỉ một người, lại là một người già yếu, sanh ra muôn vàn con cháu, đông như sao trên trời, như cát bãi biển, không thể đếm được.''
 
''HếtNên thảybây nhữnggiờ ngườicòn đó đềuba chếtđiều trongnày: đức tin, chưasự nhậntrông lãnhcậy, nhữngtình điều hứa choyêu mìnhthương; chỉnhưng trôngđiều thấytrọng hơn chàotrong mừng nhữngba điều đó từ đằng xa, xưng mìnhkẻtình kháchyêu và bộ hành trên đấtthương.''
 
''Những kẻ nói như thế, tỏ rõ rằng mình đương đi tìm nơi quê hương.''
 
''Ví thử họ đã tưởng đến nơi quê hương mà mình từ đó đi ra, thì cũng có ngày trở lại, nhưng họ ham mến một quê hương tốt hơn, tức là quê hương ở trên trời; nên Thiên Chúa không hổ thẹn mà xưng mình là Thiên Chúa của họ, vì Ngài đã sắm sẵn cho họ một thành.''
 
(KTTV 1934)
Dòng 145:
 
<h2 style="padding:3px; background:#738CBF; color:#fff; text-align:center; font-weight:bold; font-size:100%; margin-bottom:5px;margin-top:0;margin-left:-5px;margin-right:-4px;">Nhân vật</h2>
[[Hình:Paul of TarsusJohannesPaulII.jpg|phải|120px|Phao-lô100px]]
{{Âm thanh|Pl-Karol-Jozef-Wojtyla.ogg|'''Karol Józef Wojtyła'''}} ([[18 tháng 5]] năm [[1920]]&nbsp;– [[2 tháng 4]] năm [[2005]]) là người được bầu làm [[Giáo hoàng]] của [[Giáo hội Công giáo Rôma]] vào ngày [[16 tháng 10]] năm [[1978]]; ông lấy danh hiệu '''Gioan Phaolô Đệ nhị''' ([[Latinh]]: '''Ioannes Paulus II'''; [[tiếng Anh]]: '''John Paul II'''; [[tiếng Pháp]]: '''Jean Paul II'''). Ông đã lãnh đạo giáo hội này trên 26 năm từ [[1978]] đến lúc mất...
'''[[Phao-lô]]'''; (sinh [[3 TCN|3]]–[[14 TCN]]; mất [[62]]–[[69]] CN) được xem là nhân tố chính giúp quảng bá và phát triển [[Cơ Đốc giáo]] trong thời kỳ sơ khai. Nhiều tín hữu Cơ Đốc xem ông là nhà thần học quan trọng nhất giải thích những giáo huấn của [[Chúa Giê-xu]]. Theo ký thuật của [[Tân Ước]], Phao-lô là người [[Do Thái]] chịu ảnh hưởng văn minh [[Hi Lạp]], và là công dân của [[Đế chế La Mã]], đến từ thành [[Tarsus]] (nay thuộc [[Thổ Nhĩ Kỳ]]). Phao-lô là người kiên trì săn đuổi những [[tín hữu Cơ Đốc]] ban đầu (hầu hết là người Do Thái) để bách hại họ, cho đến khi chính ông trải qua kinh nghiệm lạ lùng trên đường đến thành [[Damascus]], trải nghiệm này đã đem ông đến với [[đức tin Cơ Đốc]] và chấp nhận Chúa Giê-xu là Đấng [[Messiah]] và là Con [[Thiên Chúa]]...
 
Vào ngày [[16 tháng 10]], khi ông 58 tuổi, ông đã được bầu để kế vị giáo hoàng Gioan Phaolô I, trở thành giáo hoàng từ ngoài nước [[Ý]] đầu tiên trong gần 500 năm và giáo hoàng gốc [[người Slav]] đầu tiên trong lịch sử công giáo. Vào ngày 13 tháng 5 năm [[1981]], ông đã bị một người đàn ông [[Hồi giáo]] gốc [[Thổ Nhĩ Kỳ]] tên là [[Mehmet Ali Ağca]] bắn trọng thương khi ông đang đứng trên xe chạy vòng quanh [[Quảng trường Thánh Phêrô]]. Sau khi bình phục, ông đã đến thăm kẻ bắn ông trong tù hai ngày sau [[Giáng sinh]] năm [[1983]]...
 
Ông cũng góp sức cho sự thông hiểu giữa các tôn giáo, gặp gỡ và tổ chức những buổi hội thảo và cầu nguyện với nhiều cấp lãnh đạo các tôn giáo khác. Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã công khai xin lỗi thế giới và các tôn giáo khác về những lỗi lầm của [[Giáo hội Công giáo La Mã]] trong quá khứ, tổng cộng 94 lần...
Các thư tín của Phao-lô hình thành phần nền tảng của Tân Ước (được xem là nguồn quan trọng cho nền thần học của hội thánh ban đầu). [[Cơ Đốc giáo]] truyền thống xem các thư tín của Phao-lô là một phần của kinh điển [[Tân Ước]] và xác quyết rằng tư tưởng của Phao-lô là hoàn toàn phù hợp với giáo huấn của [[Chúa Giê-xu]] và các [[Mười hai Sứ đồ|sứ đồ]] khác...
'''[[SứGioan đồPhaolô Phao-lôII|Xem tiếp]]'''
</div>
</div>