Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hawker Tempest”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Lịch sử hoạt động
Lịch sử hoạt động
Dòng 21:
Chiếc '''Hawker Tempest''' là một kiểu [[máy bay tiêm kích]] của [[Không quân Hoàng gia Anh]] sử dụng vào những năm cuối [[Thế Chiến II]], là một phiên bản được cải tiến từ chiếc [[Hawker Typhoon]], và là một trong những máy bay tiêm kích mạnh mẻ nhất được sử dụng trong cuộc chiến này.
==Phát triển==
Trong khi hãng [[Hawker Aircraft|Hawker]] và Không quân Hoàng gia Anh đang nỗ lực để làm cho chiếc Typhoon trở nên một máy bay hữu ích, [[Sidney Camm]] và nhóm thiết kế của ông ở hãng Hawker đang suy nghĩ lại về thiết kế của nó dưới dạng đề án '''Hawker P. 1012''' (hay '''Typhoon II'''). Kiểu cánh dày chắc chắn của Typhoon một phần nào đó là nguyên do của vài vấn đề về tính năng bay, và ngay từ [[tháng 3]] năm [[Hàng không năm 1940|1940]] một vài kỹ sư đã được cử riêng ra để nghiên cứu kiểu cánh ''[[laminar flow]]'' mỏng nhẹ mới mà người [[Hoa Kỳ|Mỹ]] đã áp dụng trên chiếc [[P-51 Mustang]].
 
Kiểu cánh mới có bề rộng tối đa, có tỉ lệ giữa bề dày và chiều dài của [[mặt cắt ngang]] cánh là 14.5 %, so với 18 % trên chiếc Typhoon. Nơi có bề dày tối đa được lui ra phía sau gần giữa bề rộng cánh. Cánh mới nguyên ban đầu dài hơn chiếc Typhoon, lên đến 13,1 m (43 ft), nhưng sau đó đầu cánh được rút gọn nên sải cánh ngắn hơn chiếc Typhoon còn 12,5 m (41 ft).
 
Kiểu cánh mới bó hẹp việc gắn bốn khẩu pháo [[Hispano 20 mm]] đã được thiết kế để trang bị cho chiếc Typhoon. Chúng phải được gắn lui vào trong cánh, và cánh cũng được mở rộng thành dạng [[cánh dạng elip|elip]] để chứa được các khẩu pháo và 800 quả đạn. Cánh dạng elip mới có diện tích cánh lớn hơn chiếc Typhoon. Camm, một người có đầu óc hài hước, sau này đã nhận xét: "Ban tham mưu Không quân sẽ không mua bất cứ cái gì trông không giống chiếc [[Supermarine Spitfire|Spitfire]] đâu."
Dòng 33:
Thiết kế mới về căn bản đã cố định vào [[tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1941|1941]], và Bộ Hàng không đã phát hành một bản tiêu chuẩn số hiệu '''F.10/41''' được viết ra phù hợp với kiểu máy bay này. Một hợp đồng sản xuất hai chiếc [[nguyên mẫu]] được ký kết sau đó một tháng. Chiếc máy bay ban đầu được đặt tên là ''Typhoon Mark II'' nhưng được đổi tên thành ''Tempest'' vào [[tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]] khi nhiều chiếc nguyên mẫu dựa trên các cấu hình thử nghiệm khác nhau được đặt hàng. Những kinh nghiệm về sự cố liên quan đến việc giao hàng các động cơ đã khiến Bộ Hàng không yêu cầu sáu chiếc nguyên mẫu với các kiểu động cơ khác nhau, để khi có sự trì hoãn một kiểu động cơ này thì sẽ có kiểu thay thế. Do đó chiếc Mk I (số hiệu HM599) trang bị động cơ Sabre IV, hai chiếc Mk IIs (LA602 và LA607) với động cơ Centaurus IV, MK III (LA610) với động cơ Griffon IIB, Mk IV (LA614) với động cơ Griffon 61 và Mk V (HM595) với động cơ Sabre II.
 
Chiếc nguyên mẫu Tempest đầu tiên, chiếc Mark V, bay lần đầu tiên vào ngày [[2 tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]]. Chiếc máy bay này thực ra chỉ là một chiếc Typhoon được gắn kiểu cánh elip mới và giữ lại phần khung máy bay của chiếc Typhoon, [[nóc buồng lái (máy bay)|nóc buồng lái]], cửa ra vào kiểu [[xe hơi]], động cơ Sabre II, và tản nhiệt dạng "râu". Nó nhanh chóng được gắn [[nóc buồng lái kiểu giọt nước]] giống như những chiếc Typhoon đời sau và một [[cánh đuôi đứng]] cải tiến có diện tích điều khiển rộng hơn gần gấp đôi.
 
[[Image:Hawker Tempest I HM599.jpg|thumb|right|250px|Chiếc Tempest I ''HM599'']]
 
Các [[phi công thử nghiệm]] nhận thấy rằng chiếc Tempest là một cải tiến lớn về tính năng bay so với chiếc Typhoon, cho dù nó có "hơi khó lái hơn". Bộ Hàng không đã đặt hàng 400 chiếc Tempest vào [[tháng 8]] nhưng việc sản xuất kiểu động cơ Sabre IV mới gắp những sự cố kéo dài và bị trì hoãn. Chiếc nguyên mẫu thứ hai, "Tempest Mark I" gắn động cơ Sabre IV chưa thể bay được cho đến tận ngày [[24 tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]]. Chiếc nguyên mẫu này ban đầu cũng buồng lái kiểu cũ và cánh đuôi đứng theo kiểu chiếc Typhoon. Việc loại bỏ tản nhiệt động cơ kiểu "râu" góp phần đáng kể trong việc cải thiện tính năng bay và chiếc Tempest Mark I là máy bay nhanh nhất mà Hawker từng chế tạo cho đến lúc đó, đạt được tốc độ 750 km/h (466 mph).
 
Chỉ có một chiếc Mark I được chế tạo. Vì kiểu động cơ Sabre IV không sẵn có, Camm đơn giản đưa vào sản xuất phiên bản "Tempest V" gắn động cơ Sabre II. Chiếc đầu tiên lăn bánh khỏi dây chuyền sản xuất vào ngày [[21 tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]]. 100 chiếc Tempest V đầu tiên được giao hàng gắn kiểu pháo [[Hispano Mark II]] 20 mm có nòng dài, và những chiếc này được gọi là "''Tempest V Series I''". Việc sản xuất sau đó cung cấp tổng cộng 800 máy bay được gọi là "''Tempest V Series II''", sử dụng kiểu pháo [[Hispano-Suiza HS.404]] nòng ngắn, hạn chế việc nòng súng phải lồi ra - cho dù điều này không quá nổi bật như trên chiếc Typhoon.
Dòng 47:
 
==Lịch sử hoạt động==
Chiếc Tempest V được giao đến các phi đội hoạt động vào [[tháng 4]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]] (các phi đội số 3 và 56) đóng tại [[căn cứ Không quân Hoàng gia Newchurch]], [[Kent]]), nơi nó thực hiện hoàn hảo những phi vụ tấn công tầm thấp truyền thống của chiếc Typhoon, vốn đang được chiếc Tempest thay thế khi tốc độ sản xuất tăng dần. Tuy nhiên, vào [[tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], những chiếc [[Bom bay V1]] Đức đầu tiên bắt đầu được phóng đến [[London]] và khả năng bay tầm thấp xuất sắc của chiếc Tempest làm cho nó trở thành công cụ được ưa chuộng để chống lại những trái tên lửa bay nhanh không người lái này. Các phi đội Tempest ghi được một tỉ lệ đáng kể trong tổng số chiến công tiêu diệt những trái bom bay của Không quân Hoàng gia (638 trong tổng số 1.846 trái bị máy bay tiêu diệt).
 
Những chiếc Tempest đời đầu chịu nhiều sự cố về động cơ chủ yếu do lượng xăng 150 octane không đủ đáp ứng. Cũng có những vấn đề về hệ thống nạp khí, hệ thống bôi trơn, và phần hút gió của bộ chế hòa khí (một tia lửa đánh ngược đơn giản có thể gây ra sự nổ).
 
Chiếc Tempest cũng được bố trí để hỗ trợ các đạo quân [[Đồng Minh]] tiến công vượt qua phía bắc Châu Âu và tiếp chiến máy bay tiêm kích Đức mỗi khi bắt gặp. Lực lượng Tempest là một phần của Phi đoàn 122 đặt căn cứ tại sân bay Volkel gần [[Uden]], [[Hà Lan]] và bao gồm Phi đội 486 [[Không quân Hoàng gia New Zealand]] (đơn vị New Zealand duy nhất trang bị Tempest), các phi đội 80, 56 và 274 Không quân Hoàng gia Anh. Vào [[tháng 12]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], tháng đầu tiên tham gia chiến dịch, 52 máy bay Đức bị tiêu diệt cùng 89 đoàn tàu hỏa, với thiệt hại 20 chiếc Tempest. Tiếp theo sau cuộc tấn công bất ngờ của [[Không quân Đức]] vào ngày [[1 tháng 1]] năm [[Hàng không năm 1945|1945]] ([[Chiến dịch Bodenplatte]]), Phi đoàn 122 phải chịu đựng gánh nặng các phi vụ chiến đấu của [[Không lực 2 Chiến thuật Không quân Hoàng gia Anh]], dươi áp lực chiến đấu căng thẳng, mất 47 phi công trong tháng đó.
 
Chiếc Tempest cũng ghi được những chiến thắng đối với các [[máy bay phản lực]] Đức mới, bao gồm [[Messerschmitt Me 262]]. Hubert Lange, một phi công Me 262, nói: "Đối thủ nguy hiểm nhất của chiếc Messerschmitt Me 262 chính là loại máy bay Anh Hawker Tempest, rất nhanh ở cao độ thấp, rất cơ động và trang bị hỏa lực mạnh". Một số bị tiêu diệt bởi một chiến thuật được gọi là "Rat Code". Những chiếc Tempest được báo động cất cánh ngay mỗi khi có một chiếc Me 262 xuất hiện trên không. Chúng không đánh chặn chiếc máy bay phản lực, nhưng thay vào đó sẽ bay đến căn cứ của Me 262, sân bay Rheine-Hopsten.<ref>Gần thị trấn Hopsten hơn là thành phố Rheine, và hiện vẫn đang được Không quân Đức sử dụng.</ref> Mục đích là tấn công những chiếc máy bay phản lực khi nó tiếp cận hạ cánh, lúc mà chúng trở nên mong manh nhất: bay chậm, bật cánh tà và không thể tăng tốc nhanh chóng. Người Đức phản ứng bằng cách bố trí một “đường băng pháo phòng không” với hơn 150 khẩu pháo 20 mm bốn nòng tại Rheine-Hopsten để bảo vệ việc hạ cánh. Sau khi bảy chiếc Tempest bị mất do pháo phòng không tại Rheine-Hopsten trong vòng một tuần, chiến thuật "Rat Code" được chấm dứt.
 
==Đặc điểm kỹ thuật (Tempest V)==