Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giang Tây”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi |
|||
Dòng 41:
== Lịch sử ==
Vào thời
Vào thời [[Xuân Thu]], phần phía bắc của tỉnh Giang Tây ngày nay nằm trên biên giới phía tây của [[Ngô (nước)|nước Ngô]]. Trong thời kỳ này, sử
Sau khi thống nhất Trung Quốc, triều đình [[nhà Tần]] đã lập nên [[Hoài Nam quận|Cửu Giang quận]] bao trùm phần lớn Giang Tây, trị sở của quận này nay thuộc [[Thọ (huyện)|
Khoảng năm 202 TCN, thời [[Hán Cao Tổ]], triều đình [[nhà Hán]] đã thiết lập [[Dự Chương quận]] (sông Cám trước đây gọi là sông Dự Chương), trị sở của quận này đặt tại Nam Xương (ý là "Xương đại nam cường" và "Nam phương xương thịnh"), đây cũng là quận đầu tiên mà các triều đại Trung Quốc thiết lập
Thời [[nhà Tùy]], triều đỉnh sửa đổi chế độ châu huyện thành chế độ châu quận huyện, trên địa phận Giang Tây lúc đó có bảy quận và 24 huyện. Dưới thời [[nhà Đường]], các quận bị bãi bỏ và đều trở thành "châu", Giang Tây khi đó có 8 châu ([[Hồng châu]], [[Nhiêu châu]], [[Kiền châu]], [[Cát châu]], [[Giang châu]], [[Viên châu]], [[Phủ châu]], [[Tín châu]]) và 37 huyện. Năm [[Trinh Quán (niên hiệu)|Trinh Quán]] thứ nhất thời [[Đường Thái Tông]], toàn quốc được chia thành 10 đạo, Giang Tây thuộc [[Giang Nam đạo]]. Đến năm 733, [[Đường Huyền Tông]] điều chỉnh thành 15 đạo, tám châu trên địa phận Giang Tây lệ thuộc [[Giang Nam Tây đạo]]. Tên gọi "Giang Tây" cũng bắt nguồn từ đạo này
[[Tập tin:Tianshifu.jpg|nhỏ|trái|[[Tự Hán Thiên Sư phủ]] (嗣汉天师府), hình thành từ thời Bắc Tống]]
Sau khi nhà Đường sụp đổ vào năm 907, Trung Quốc bị phân liệt trong thời [[Ngũ Đại Thập Quốc]]. Đầu tiên, Giang Tây thuộc
Đến thời [[nhà Tống]], đơn vị trên cấp châu được chuyển thành lộ, khu vực Giang Tây có 9 châu, 4 quân
Vào thời [[nhà Nguyên]], triều đình thiết lập [[Giang Tây đẳng xứ hành trung thư tỉnh]] (江西等处行中书省), địa hạt bao trùm tuyệt đại bộ phận Giang Tây ngày nay (một bộ phận phía đông bắc lệ thuộc [[Giang Chiết đẳng xứ hành trung thư tỉnh]]) và phần lớn tỉnh [[Quảng Đông]] hiện nay. Các hành tỉnh thời Nguyên được chia thành các lộ, trực lệ châu, châu và huyện. Tại Giang Tây, có 13 lộ là Long Hưng, Cát An, Nam Khang, Cống Châu, Kiến Xương, Giang Châu, Bam An, Thụy Châu, Viên Châu, Lâm Giang, Phủ Châu, Nhiêu Châu, Tín Châu cùng hai trực lệ châu là Nam Phong và Duyên Sơn, cùng
[[Tập tin:Qing-Jingdezhen.jpg|nhỏ|phải|Buôn bán đồ sứ tại Cảnh Đức Trấn thời nhà Thanh]]
[[Tập tin:Chinese civil war map 03.jpg|nhỏ|phải|Bản đồ các khu Xô viết tại Trung Quốc cùng cuộc [[Vạn lý Trường chinh]] (1934-1935)]]
Đến thời [[nhà Minh]], về cơ bản vẫn giữ lại chế độ hành chính thời Nguyên, song đổi hành trung thư tỉnh thành bố chánh sứ ti, đổi lộ thành phủ và đổi châu thành huyện. Giang Tây bố chánh sử ti về cơ bản tương đương với Giang Tây ngày nay, có thẩm quyền đối với 13 phủ là Nam Xương, Thụy Châu, Nhiêu Châu. Nam Khang, Cửu Giang, Quảng Tín, Phủ Châu, Kiến Xương, Cát An, Viên Châu, Lâm Giang, Cống Châu, Nam An; các phủ được chia tiếp thành 78 huyện. Sau khi Quảng Đông tách thành một bố chánh sứ ti riêng, ranh giới của Giang Tây từ đó có rất ít thay đổi. Khi đó, các cơ quan hành chính tối cao là Thừa tuyên bố chánh sứ ti, đề hình án sát sứ ti, dô chỉ huy sứ ti, tam ti phân biệt do triều đình trung ương trực tiếp kiểm soát, phân quyền cai trị. Ngoài ra, còn có ba địa vị phiên vương (Ninh vương, Hoài vương và Ích vương) phân phong tại Giang Tây, lần lượt tại Nam Xương phủ, Nhiêu Châu phủ (Bà Dương), và Kiến Xương phủ (Nam Thành).
Đến thời nhà Thanh, triều đình đổi Giang Tây bố chánh sứ ti thành Giang Tây tỉnh, cơ bản vẫn thi hành chế độ hành chính của nhà Minh. Tăng thêm ba huyện cấp thính là Liên Hoa tại Cát An phủ, Đồng Cổ tại Nam Xương phủ, Kiền Nam tại
Thời kỳ Minh Thanh, Giang Tây nằm trên tuyến giao lộ nam-bắc rất phồn thịnh giữa Quảng Đông và lưu vực Trường Giang, khiến các thành thị của Giang Tây dọc theo tuyến đường này cũng có được sự phồn vinh. Đồng thời, do chính sách
Thời kỳ [[Trung Hoa Dân Quốc]], các phủ, châu và thính đều được chuyển thành huyện, Giang Tây khi đó có tổng cộng 81 huyện. Đến năm 1926, quân [[Bắc phạt]] tiến đến và đồn trú tại Nam Xương, chính thức thành lập thành phố Nam Xương. Năm 1934, huyện [[Vụ Nguyên]] của An Huy được sáp nhập vào Giang Tây, đến năm 1947 lại trả cho An Huy, đến năm 1949 lại nhập vào Giang Tây. Ngay 1 tháng 8 năm 1927, tại Giang Tây nổ ra [[khởi nghĩa Nam Xương]], khởi đầu [[Nội chiến Trung Quốc]]. Sau đó, trên địa phận Giang Tây và các tỉnh lân cận, [[đảng Cộng sản Trung Quốc|Cộng sản đảng]] đã thiết lập [[căn cứ địa cách mạng Tĩnh Cương Sơn]], [[căn cứ địa cách mạng Tương-Việt-Cám]], [[căn cứ địa cách mạng Mân-Chiết-Cám]], [[căn cứ địa cách mạng Tương-Ngạc-Cám]] và [[căn cứ địa cách mạng Trung Ương]].
Năm 1931, Cộng sản đảng đã tuyên bố thành lập [[Cộng hòa Xô viết Trung Hoa]] tại [[Thụy Kim]], đổi tên Thụy Kim thành Thụy Kinh, đây là thủ đô của chính phủ trung ương, được gọi là "Hồng sắc
Năm 2005, tuyến [[đường sắt Kinh-Cửu]] từ [[Bắc Kinh]] đến [[Hồng Kông]] đã khai thông kết nối nam-bắc Giang Tây, đẩy nhanh sự phát triển
== Địa lý ==
Dòng 75:
Giang Tây có núi bao quanh ba mặt, ở phía tây là các dãy núi [[dãy núi Mạc Phụ|Mạc Phụ]] (幕阜山), [[dãy núi Cửu Lĩnh|Cửu Lĩnh]] (九岭山), và [[dãy núi La Tiêu|La Tiên]] (罗霄山); ở phía đông là các dãy núi [[dãy núi Hoài Ngọc|Hoài Ngọc]] (怀玉山) và [[Khu thắng cảnh Vũ Di Sơn|Vũ Di]]; còn ở phía nam là các dãy núi [[dãy núi Cửu Liên|Cửu Liên]] (九连山) và [[Đại Dữu Lĩnh]] (大庾岭). Phần trung bộ và nam bộ của Giang Tây là các gò đồi và thung lũng nằm rải rác, núi và gò đồi chiếm tới 60% diện tích của tỉnh; trong khi bắc bộ thì bằng phẳng và có cao độ thấp, gọi là [[đồng bằng hồ Bà Dương]]. Đỉnh cao nhất Giang Tây là [[Hoàng Cương Sơn]] (黄岗山) thuộc dãy núi Vũ Di, trên vùng giáp giới với [[Phúc Kiến]], với cao độ {{convert|2157|m}}.
Giang Tây có [[khí hậu cận nhiệt đới ẩm]] (''Cfa'' theo [[phân loại khí hậu Köppen]]), với mùa đông ngắn, mát và ẩm cùng mùa hè rất nóng và ẩm ướt. Nhiệt độ không khí trung bình là {{convert|3|to|9|°C|°F}} vào tháng 1 và {{convert|27|to|30|°C|°F}} vào tháng 7. Lượng [[giáng thủy]] hàng năm là {{convert|1200|to|1900|mm|in}}, phần lớn bắt nguồn từ các cơn mưa lớn vào cuối mùa xuân và mùa hè.
Dòng 167:
== Kinh tế ==
[[Tập tin:Foliated dish with underglaze blue design of melons, bamboo and grapes, Jingdezhen ware, Yuan, 1271-1368, Shanghai Museum.jpg|nhỏ|phải|Gốm sứ Cảnh Đức Trấn thời Nguyên]]
Theo kết quả sơ bộ, năm 2010, tổng GDP của Giang Tây đạt 943,5 tỉ NDT,
Trong số các tỉnh thị, tốc độ phát triển kinh tế của Giang Tây ở mức trung bình, song tổng giá trị kinh tế thì tương đối nhỏ. Nông nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân của tỉnh Giang Tây. Trong 29 năm từ 1979-2007, tổng GDP của Giang Tây đã tăng lên 62,86 lần, còn theo giá
[[Lúa]] là cây trồng chủ đạo tại Giang Tây, các loại cây thường trồng khác là [[sợi bông|bông]] và [[cải dầu]], [[chè (cây)|chè]], [[mao trúc]], [[sam (cây)|thông sam]]. Giang Tây dẫn đầu về sản xuất [[kim quất]] tại Trung Quốc, đặc biệt là ở huyện [[Toại Xuyên]].<ref name="huibu1988">{{cite book|author=Zhonghua quan guo min zhu fu nü lian he hui|title=Chung-kuo fu nü|url=http://books.google.com/books?id=kcmGAAAAIAAJ|accessdate=16 June 2011|year=1988|publisher=Foreign Language Press}}</ref> Giang Tây giàu tài nguyên khoáng sản, dẫn đầu trong số các tỉnh của Trung Quốc về trữ lượng [[đồng]], [[volfram]], [[vàng]], [[bạc]], [[urani]], [[thori]], [[tantali]], [[niobi]]. Các trung tâm khai mỏ đáng chú ý là [[Đức Hưng]] (đồng) và [[Đại Dư]] (volfram). Gốm sứ Cảnh Đức Trấn nổi tiếng toàn quốc.
Dòng 177:
Cư dân Giang Tây chủ yếu nói [[tiếng Cám]], một bộ phận nói [[tiếng Khách Gia]], [[tiếng Huy]], [[tiếng Ngô]] và [[Quan thoại]]. Tiếng Cám là một trong các phương ngữ lớn, số người sử dụng ước đạt 51 triệu, ngôn ngữ này được nói tại trên 60 huyện thị tại Giang Tây, phạm vi bao trùm Nam Xương, Cảnh Đức Trấn (khu thành thị), Bình Hương, Nghi Xuân, Phủ Châu và Cát An. Tiếng Khách Gia được nói ở Cám Châu.
== Giao thông ==
=== Hàng không ===
Hàng 228 ⟶ 229:
=== Đường thủy ===
Cửu Giang là một cảng sông nội địa trọng yếu, có cả các tuyến chiều dọc nội tỉnh theo [[sông Cám]] và [[sông Tín]], có các tuyến liên tỉnh chiều ngang theo [[Trường Giang]] và [[sông Xương Giang]] (một [[phân lưu]] của Trường Giang), toàn tỉnh có 4.937 km đường thủy có thể thông hành. Nam Xương và Thượng Nhiêu cũng có các cảng sông lớn, phục vụ cả việc chuyên chở hàng hóa lẫn hành khách.
== Giáo dục ==
<table border="0"><tr>
<td valign="top">
* [[Đại học Nam Xương]] (南昌大学)
* [[Đại học Nông nghiệp Giang Tây]] (江西农业大学)
* [[Đại học Sư phạm Giang Tây]] (江西师范大学)
* Đại học Tài chính-Kinh tế Giang Tây]] (江西财经大学)
* [[Đại học Hàng không Nam Xương]] (南昌航空大学)
* [[Đại học Giao thông Hoa Đông]] (华东交通大学)
* [[Học viện Công trình Giang Tây]] (南昌工程学院)
* [[Học viện Trung Y Giang Tây]] (江西中医学院)
* [[Đại học Sư phạm Khoa học-Kỹ thuật Giang Tây]] (江西科技师范大学)
* [[Học viện Giáo dục Giang Tây]] (江西教育学院)
* [[Đại học Khoa học-Công nghệ Giang Tây]] (江西理工大学)
* [[Học viện Y Cám Nam]] (赣南医学院)
</td><td valign="top">
* [[Học viện Sư phạm Cám Nam]] (赣南师范学院)
* [[Đại học Khoa học-Công nghệ Đông Hoa]] (东华理工大学)
* [[Đại học Tĩnh Cương Sơn]] (井冈山大学)
* [[Học viện Cửu Giang]] (九江学院)
* [[Học viện Tân Dư]] (新余学院)
* [[Học viện Nghi Xuân]] (宜春学院)
* [[Học viện Gốm sứ Cảnh Đức Trấn]] (景德镇陶瓷学院)
* [[Học viện Sư phạm Thượng Nhiêu]] (上饶师范学院)
* [[Học viện Khoa học-Kỹ thuật Giang Tây]] (江西科技学院), dân lập
* [[Học viện Khoa học-Công nghệ Nam Xương]] (南昌理工学院), dân lập
* [[Học viện Trang phục Giang Tây]] (江西服装学院), dân lập
</td></tr></table>
== Tham khảo ==
|