Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Hawker Tempest”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Dòng 54:
 
Chiếc Tempest cũng ghi được những chiến thắng đối với các [[máy bay phản lực]] Đức mới, bao gồm [[Messerschmitt Me 262]]. Hubert Lange, một phi công Me 262, nói: "Đối thủ nguy hiểm nhất của chiếc Messerschmitt Me 262 chính là loại máy bay Anh Hawker Tempest, rất nhanh ở cao độ thấp, rất cơ động và trang bị hỏa lực mạnh". Một số bị tiêu diệt bởi một chiến thuật được gọi là "Rat Code". Những chiếc Tempest được báo động cất cánh ngay mỗi khi có một chiếc Me 262 xuất hiện trên không. Chúng không đánh chặn chiếc máy bay phản lực, nhưng thay vào đó sẽ bay đến căn cứ của Me 262, sân bay Rheine-Hopsten.<ref>Gần thị trấn Hopsten hơn là thành phố Rheine, và hiện vẫn đang được Không quân Đức sử dụng.</ref> Mục đích là tấn công những chiếc máy bay phản lực khi nó tiếp cận hạ cánh, lúc mà chúng trở nên mong manh nhất: bay chậm, bật cánh tà và không thể tăng tốc nhanh chóng. Người Đức phản ứng bằng cách bố trí một “đường băng pháo phòng không” với hơn 150 khẩu pháo 20 mm bốn nòng tại Rheine-Hopsten để bảo vệ việc hạ cánh. Sau khi bảy chiếc Tempest bị mất do pháo phòng không tại Rheine-Hopsten trong vòng một tuần, chiến thuật "Rat Code" được chấm dứt.
 
Phi công lái Tempest có thành tích cao nhất là Chỉ huy phi đội D.C. Fairbanks, một người Mỹ đã gia nhập [[Không quân Hoàng gia Canada]] vào năm [[Hàng không năm 1941|1941]]. Đến giữa năm [[Hàng không năm 1944|1944]], ông phục vụ trong Phi đội 274. Khi ông bị bắn rơi và trở thành tù binh chiến tranh vào [[tháng 2]] năm [[Hàng không năm 1945|1945]], ông đã bắn rơi 12 máy bay Đức (cùng một nữa chiến công chung) khiến ông trở thành [[Ách (phi công)|“Ách”]] Tempest có chiến công cao nhất. Ông đã được trao tặng [[Huân chương Chữ thập bay Dũng cảm]] Anh Quốc.
 
==Tempest II==
[[Image:Hawker Tempest II LA602 - Prototype.jpg|thumb|right|250px|Chiếc nguyên mẫu Tempest II ''LA602'']]
Trong khi Hawker đang nỗ lực hoạt động để đưa chiếc Tempest V vào hoạt động, Sydney Camm và nhóm của ông quay lại kiểu [[động cơ bố trí hình tròn]] [[Bristol Centaurus]], tích hợp nó vào hai chiếc Tempest nguyên mẫu khác. Chiếc Tempest đầu tiên gắn động cơ Centaurus, kiểu "Tempest Mark II", bay lần đầu tiên ngày [[28 tháng 6]] năm [[Hàng không năm 1943|1943]] với một động cơ Centaurus IV, và được tiếp nối bởi chiếc nguyên mẫu thứ hai. Động cơ hình tròn được phát triển dựa trên sự khảo sát một chiếc [[Focke-Wulf Fw 190]] chiếm được còn nguyên vẹn và hoạt động tốt, một điều chưa từng xảy ra. Có những vấn đề về sự rung động, nhưng chúng được sửa chữa bằng cách bổ sung sáu miếng đệm cao su.
 
Động cơ Centaurus nói chung được đánh giá là trội hơn kiểu Sabre, đặc biệt là về độ tin cậy, và động cơ Centaurus cùng khung Tempest tỏ ra là một sự phối hợp tuyệt vời. Sự phối hợp này tỏ ra có triển vọng đến mức một hợp đồng đặt hàng 500 chiếc kiểu này đã có từ [[tháng 9]] năm [[Hàng không năm 1942|1942]], nhưng lúc ấy [[Gloster]] đã bị quá tải trong việc sản xuất chiếc Typhoon và phát triển chiếc [[Gloster Meteor]], và không có cách nào mà công ty có thể gánh nổi công việc bổ sung đó. Việc sản xuất chiếc Tempest Mark II được trao vào tay [[Bristol Aeroplane Company|Bristol]], và việc chuyển đổi này càng làm công việc thêm chậm trễ. Chiếc Tempest II đầu tiên lăn bánh ra khỏi dây chuyền sản xuất vào ngày [[4 tháng 10]] năm [[Hàng không năm 1944|1944]], nhưng sau đó việc sản xuất lại chuyển trở về cho Hawker.
 
Có tổng cộng 452 chiếc Tempest II được chế tạo, bao gồm 136 chiếc Mark II kiểu căn bản và 316 chiếc "Mark II Tiêm kích-Ném bom" (FB.II). Chúng được chế tạo đa số bởi Hawker và nói chung với động cơ Centaurus V, nhưng có tới 300 chiếc được hoàn tất sau chiến tranh. Chiếc Tempest II, cho dù cải thiện được phần nào tính năng bay và độ tin cậy tốt hơn, chưa bao giờ tham gia chiến đấu. Những chiếc Tempest II được sản xuất trong chiến tranh được dự định để chiến đấu chống lại [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]], và sẽ là thành phần tạo nên "Lực lượng Tiger" nhưng chiến tranh tại [[Mặt trận Thái Bình Dương|Thái Bình Dương]] đã kết thúc trước khi chúng được bố trí.
 
Có 89 chiếc Tempest FB.II được chuyển giao từ Không quân Hoàng gia cho [[Không quân Ấn Độ]] vào năm [[Hàng không năm 1947|1947]], trong khi 24 chiếc khác được chuyển giao cho [[Không quân Pakistan]].
 
==Tempest VI==
[[Image:Hawker Tempest VI NX135 Langley 1945.jpg|thumb|right|300px|Chiếc Tempest VI, số hiệu ''NX135'', được chụp tại Langley năm 1945]]
Nhiều tinh chỉnh về kỹ thuật được thực hiện trên phiên bản Tempest II được tích hợp vào phiên bản Tempest cuối cùng này, kiểu "Tempest VI", được trang bị động cơ Sabre V công suất 2.340 mã lực (1.700 kW). Hằng trăm chiếc Tempest VI đã được đặt hàng, nhưng chỉ có 142 chiếc được chế tạo. Phiên bản Tempest VI là máy bay tiêm kích động cơ piston cuối cùng phục vụ cho Không quân Hoàng gia, có hai chiếc cùng với một số phiên bản Mark V được chuyển đổi sang mục tiêu giả kéo theo, và đó là vai trò cuối cùng mà nó đảm nhận khi nghỉ hưu vào năm [[Hàng không năm 1953|1953]].
 
==Đặc điểm kỹ thuật (Tempest V)==