Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n chú thích, replaced: {{cite web → {{chú thích web (3) |
|||
Dòng 17:
'''Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ''' ([[tiếng Anh]]: ''Speaker of the United States House of Representatives'', hay ''Speaker of the House'') là viên chức chủ tọa của [[Hạ viện Hoa Kỳ]]. Chức vụ này được thành lập vào năm 1789 theo Điều khoản I, Đoạn 2, [[Hiến pháp Hoa Kỳ]] mà trong đó một phần có nói "Hạ viện sẽ chọn chủ tịch và các viên chức khác của mình". Đương kim chủ tịch là [[John Boehner]] (trước đó từng là [[Lãnh tụ thiểu số tại Hạ viện Hoa Kỳ]]) được bầu khi [[Quốc hội Hoa Kỳ]] lần thứ 112 khai mạc vào ngày 5 tháng 1 năm 2011.<ref>http://www.cbc.ca/world/story/2010/11/02/us-midterm-elections.html</ref>
Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ là người đứng thứ hai trong thứ tự kế nhiệm [[Tổng thống Hoa Kỳ]], đứng sau [[Phó Tổng thống Hoa Kỳ]] và đứng trước [[Chủ tịch Thượng viện Tạm quyền Hoa Kỳ]].<ref>Xem Luật kế nhiệm Tổng thống Hoa Kỳ, {{usc|3|19}}</ref> Không giống như một số nghị viện thuộc [[Hệ thống Westminster]] (theo hệ thống Vương quốc Anh), Chủ tịch Hạ viện là một chức vụ lãnh đạo trong đảng đa số và làm việc tích cực để ấn định chương trình nghị sự lập pháp của đảng, vì thế chức vụ này có quyền lực đáng kể. Chủ tịch Hạ viện thường thường không trực tiếp làm chủ tọa đối với các buổi tranh luận mà thay vào đó giao phó nhiệm vụ này cho những thành viên khác cùng chung đảng của mình trong [[Quốc hội Hoa Kỳ]].<ref>{{
==Bầu cử==
Dòng 37:
Về cuối thế kỷ 19, chức vụ chủ tịch hạ viện bắt đầu phát triển thành một chức vụ đầy quyền lực. Một trong số những nguồn lực quan trọng nhất để tạo nên quyền lực của chủ tịch hạ viện là chức vụ chủ tịch [[Ủy ban Luật pháp Hạ viện Hoa Kỳ]] (''United States House Committee on Rules'') mà sau khi có cuộc tái tổ chức hệ thống ủy ban vào năm 1880 đã trở thành một ủy ban thường trực đầy quyền lực nhất của Hạ viện Hoa Kỳ. Hơn thế, một số các chủ tịch hạ viện đã trở thành những khuôn mặt lãnh đạo trong các đảng chính trị của mình; các thí dụ gồm có các đảng viên Dân chủ [[Samuel J. Randall]], [[John Griffin Carlisle]], và [[Charles Frederick Crisp|Charles F. Crisp]], hay đảng viên Cộng hòa [[James G. Blaine]], [[Thomas Brackett Reed]], và [[Joseph Gurney Cannon]].
Quyền lực của chủ tịch hạ viện được nâng lên tầm cao dưới thời của đảng viên Cộng hòa [[Thomas Brackett Reed]] (1889–1891, 1895–1899) làm chủ tịch hạ viện. "Sa hoàng Reed", biệt danh mà các đối thủ của ông đã dùng để gọi ông,<ref>Robinson, William A. "Thomas B. Reed, Parliamentarian". ''The American Historical Review'', October, 1931. pp. 137–138.</ref> đã tìm cách chấm dứt sự ngăn cản thông qua các đạo luật mà đảng thiểu số thường tiến hành bằng chiến thuật không bỏ phiếu mặc dù có mặt tại phòng họp hạ viện.<ref>{{
[[Image:JGCannon.jpg|thumb|upright|[[Joseph Gurney Cannon]] (1903–1911) là một trong những Chủ tịch Hạ viện quyền lực nhất.]]
Một trong số những chủ tịch hạ viện có ảnh hưởng nhất là đảng viên Dân chủ [[Sam Rayburn]].<ref>{{
Người kế nhiệm Albert là đảng viên Dân chủ [[Tip O'Neill]], một chủ tịch hạ viện nổi tiếng vì sự chống đối công khai của ông đối với các chính sách của Tổng thống [[Ronald Reagan]]. O'Neill là vị chủ tịch hạ viện phục vụ lâu dài và liên tục nhất (từ năm 1977 đến 1987). Ông thách thức Tổng thống Reagan về các chương trình đối nội và về những chi tiêu quốc phòng. Các đảng viên Cộng hòa đã nhắm mục tiêu vào O'Neill trong các cuộc vận động tranh cử của họ vào năm 1980 và 1982; tuy nhiên, đảng Dân chủ vẫn duy trì được thế đa số trong cả hai năm đó.
Vai trò của các đảng phái bị đảo ngược vào năm 1994 khi đảng Cộng hòa giành quyền kiểm soát Hạ viện Hoa Kỳ sau khi mất đến 40 năm trong vai trò đảng thiểu số. Chủ tịch Hạ viện [[Newt Gingrich]] thường xuyên đụng độ với tổng thống Dân chủ [[Bill Clinton]]; đặc biệt, chương trình có tên gọi "Contract with America" (tạm dịch: Hợp đồng với nước Mỹ) của Gingrich là một nguồn gây tranh chấp. Gingrich từ chức năm 1998 khi đảng Cộng hòa thất bại nặng nề trong các cuộc bầu cử quốc hội mặc dù vẫn giữ được đa số ít ỏi tại hạ viện. Người kế nhiệm, [[Dennis Hastert]], đóng một vai trò ít nổi bật hơn nhiều. Trong các cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2006, đảng Dân chủ giành được đa số tại Hạ viện Hoa Kỳ. [[Nancy Pelosi]] trở thành chủ tịch hạ viện khi Quốc hội Hoa Kỳ lần thứ 110 nhóm họp vào ngày 4 tháng 1 năm 2007 đã đưa bà lên thành người phụ nữ đầu tiên trở thành chủ tịch hạ viện. Với việc Barack Obama đắc cử tổng thống và đảng Dân chủ giành quyền kiểm soát cả hai viện quốc hội, Pelosi trở thành chủ tịch hạ viện đầu tiên kể từ khi [[Tom Foley]] nắm giữ chức vụ này trong lúc đảng Dân chủ nắm quyền lãnh đạo cả hai viện quốc hội tại Washington.<ref>See [[Party Divisions of United States Congresses]]</ref> Đảng Cộng hòa giành quyền kiểm soát Hạ viện Hoa Kỳ trong các cuộc bầu cử giữa kỳ năm 2010, và vì thế [[John Boehner]] trở thành chủ tịch hạ viện vào đầu tháng 1 năm 2011.<ref name="abcnews.go.com">[http://abcnews.go.com/story?id=12047865&page=1]</ref>
Nếu đảng của chủ tịch hạ viện mất quyền kiểm soát hạ viện trong một cuộc bầu cử, và nếu cả chủ tịch hạ viện và [[lãnh tụ đa số tại Hạ viện Hoa Kỳ|lãnh tụ đa số]] vẫn còn nằm trong ban lãnh đạo cao cấp của đảng thì điều này có nghĩa rằng họ sẽ trở thành [[lãnh tụ thiểu số tại Hạ viện Hoa Kỳ|lãnh tụ thiểu số]] và người đặc trách tổ chức và kỷ luật của đảng thiểu số (''minority whip'') theo thứ tự vừa nói. Khi đảng thiểu số chỉ còn có một vị trí lãnh đạo sau khi mất chiếc ghế chủ tịch hạ viện thì có thể xãy ra một cuộc chạy đua để giành lấy các vị trí lãnh đạo còn lại. [[Joseph William Martin, Jr.]] và [[Sam Rayburn]] là hai thí dụ gần nhất về các chủ tịch sắp ra đi nhưng họ vẫn tìm cách trở thành lãnh tụ thiểu số để giữ quyền lãnh đạo đảng tại hạ viện khi đảng của họ bị thay quyền kiểm soát hạ viện trong cuối thập niên 1940 và đầu thập niên 1950. Các chủ tịch hạ viện sau này đều không trở về vị trí lãnh đạo đảng khi đảng của họ bị mất quyền kiểm soát hạ viện ([[Tom Foley]] mất ghế của mình, [[Dennis Hastert]] trở về vị trí hậu trường của đảng); tuy nhiên, [[Nancy Pelosi]] thông báo rằng bà sẽ chạy đua vào chức lãnh tụ thiểu số khi Quốc hội Hoa Kỳ lần thứ 112 khai mạc cũng là lúc chức chủ tịch hạ viện của bà kết thúc.<ref>[http://www.miamiherald.com/2010/11/05/1910953/pelosi-wants-to-remain-leader.html]</ref>
Dòng 53:
Chủ tịch hạ viện có trách nhiệm làm sao để Hạ viện thông qua các qui trình luật mà đảng đa số ủng hộ. Để đạt được mục tiêu này, chủ tịch hạ viện có thể vận dụng quyền lực của mình để quyết định khi nào thì mỗi đạo luật sẽ được đưa ra phòng họp hạ viện. Chủ tịch cũng làm chủ tọa ủy ban hướng dẫn hạ viện của đảng đa số. Trong khi chủ tịch hạ viện là người lãnh đạo chức năng của đảng đa số tại hạ viện thì vị [[Chủ tịch Thượng viện Tạm quyền Hoa Kỳ|Chủ tịch Thượng viên tạm quyền]] tại [[Thượng viện Hoa Kỳ|thượng viện]] không được như vậy mà chỉ là một chức vụ danh dự và nghi thức.
Khi chủ tịch hạ viện và tổng thống là hai người cùng chung đảng phái thì chủ tịch hạ viện thường thường đóng một vai trò ít nổi bật hơn, đó là lãnh tụ của đảng đa số. Thí dụ, Chủ tịch Hạ viện [[Dennis Hastert]] đóng một vai trò không mấy nổi bật dưới thời của người đồng đảng phái Cộng hòa là Tổng thống [[George W. Bush]]. Ngược lại, khi chủ tịch và tổng thống là hai người từ hai đảng phái đối lập nhau thì vai trò công khai và sức ảnh hưởng của chủ tịch hạ viện có chiều hướng tăng dần. Khi đó Chủ tịch hạ viện là thành viên cao cấp nhất của đảng đối lập và thường thường là đối thủ công khai chính đối với chương trình nghị sự của tổng thống. Những thí dụ gần đây nhất gồm có [[Tip O'Neill]], một đối thủ to tiếng chống đối các chính sách quốc phòng và đối nội của Tổng thống [[Ronald Reagan]]; [[Newt Gingrich]] đã đụng độ dữ dội với Tổng thống [[Bill Clinton]] trong việc kiểm soát chính sách đối nội; và [[Nancy Pelosi]] đã chống đối với Tổng thống [[George W. Bush]] về chính sách đối nội và [[Chiến tranh Iraq]].<ref
==Viên chức chủ tọa==
Dòng 102:
{{DEFAULTSORT:Speaker Of The United States House Of Representatives}}
[[Thể loại:Chủ tịch Hạ viện Hoa Kỳ| ]]
[[
[[id:Ketua Dewan Perwakilan Rakyat Amerika Serikat]]
|