Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Sakhalin”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Makecat-bot (thảo luận | đóng góp)
n r2.7.3) (Bot: Thêm sh:Sahalin
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n chú thích, replaced: {{cite web → {{chú thích web (8), {{cite book → {{chú thích sách (10), {{cite journal → {{chú thích tạp chí
Dòng 13:
|major islands =
|area km2 = 72492
|area footnotes = <ref name="islands.unep.ch">{{citechú thích web |url=http://islands.unep.ch/Tiarea.htm |title=Islands by Land Area |author= |date=February 18, 1998 |work=Island Directory |publisher=[[United Nations Environment Programme]] |accessdate=June 16, 2010}}</ref>
|rank = [[danh sách đảo theo diện tích|thứ 23]]
|highest mount = Lopatin
Dòng 29:
'''Sakhalin''' ({{lang-ru|Сахалин}}, {{IPA-ru|səxɐˈlʲin|pron}}) là một hòn đảo lớn ở phía bắc [[Thái Bình Dương]], nằm giữa 45°50' và 54°24' vĩ Bắc. Hòn đảo là một phần của nước [[Nga]], và cũng là hòn đảo lớn nhất của liên bang này. Về mặt hành chính, đảo là một phần của tỉnh [[Sakhalin (tỉnh)|Sakhalin]]. Sakhalin có diện tích bằng khoảng một phần năm diện tích của [[Nhật Bản]], nằm ở ngay bờ biển phía đông của Nga, và nằm ngay phía bắc bờ biển đảo [[Hokkaido]] của Nhật Bản.
 
[[thổ dân|Các dân tộc bản địa]] trên đảo là [[người Ainu]], [[người Orok]], và [[người Nivkh]].<ref>{{citechú thích web |url=http://museum.sakh.com/eng/10.shtml |title=The Sakhalin Regional Museum: The Indigenous Peoples |author= |date= |work= |publisher=Sakh.com |accessdate=June 16, 2010}} {{Dead link|date=October 2010|bot=H3llBot}}</ref> Hầu hết người Ainu đã tái định cư đến [[Hokkaidō]] khi người Nhật bị trục xuất khỏi đảo vào năm 1949.<ref>{{citechú thích booksách |title=The Shaman's Coat: A Native History of Siberia |last= Reid |first= Anna |year= 2003 |publisher=Walker & Company |location=New York |isbn= 0-8027-1399-8 |pages=148–150 |url= |accessdate=}}</ref>
 
Trong thế kỷ 19 và 20, cả Nga và Nhật Bản đều đã từng tuyên bố có chủ quyền đối với Sakhalin, hai nước đã tranh chấp quyết liệt để giành được quyền kiểm soát đảo.
Dòng 36:
Tên gọi Sakhalin bắt nguồn từ việc dịch sai tên [[tiếng Mãn]] ''sahaliyan ula angga hada'' ("hòn đá lởm chởm ở cửa [[sông Amur]]"). ''Sahaliyan'', từ được mượn để hình thành "Sakhalin", có nghĩa là "đen" trong tiếng Mãn và là tên tiếng Mãn của [[sông Amur]] (''sahaliyan ula'', nghĩa là "sông đen"). Tên tiếng Nhật của hòn đảo, {{nihongo|''[[Karafuto]]''|樺太|hanviet=Hoa Thái}}, bắt nguồn từ [[tiếng Ainu]] ''[[kamuy]] kar put ya mosir'' ({{lang|ain|カムイ・カ<small>ラ</small>・プ<small>ト</small>・ヤ・モシ<small>リ</small>}}, rút ngắn thành ''Karput'' {{lang|ain|カ<small>ラ</small>・プ<small>ト</small>}}). Tên này được sử dụng bởi người Nhật trong thời gian chiếm đóng phần phía nam hòn đảo (1905–1945).
 
Vào thời [[nhà Đường]], người Trung Quốc gọi đảo Sakhalin là ''Quật Thuyết'' (窟說), ''Khuất Thuyết'' (屈設); thời [[nhà Nguyên]] gọi là ''Cốt Ngôi'' (骨嵬) đến thời [[nhà Minh]] thì gọi là ''Khổ Di'' (苦夷), ''Khổ Ngột'' (苦兀), đến thời [[nhà Thanh]] thì gọi là ''Khố Diệp'' (庫葉), ''Khố Dã'' (庫野) hay ''Khố Hiệt'' (庫頁).<ref name="gao">{{citechú journalthích tạp chí|author=高福顺|title=库页岛的地理发现与日俄对库页岛的争夺|journal=长春师范学院学报|year=2002|month=3|volume=21|issue=1|pages=22-25|accessdate=2010-10-02}}</ref>
 
==Lịch sử==
Dòng 43:
Sakhalin đã có người sinh sống từ [[thời đại đồ đá mới]]. Các đồ dùng để đánh lửa đã được tìm thấy tại Dui và [[Kusunai]] với số lượng rất lớn và tương tự những thứ được tìm thấy ở Siberi. Ngoài ra, người ta còn tìm thấy các rìu đá được đánh bóng tương tự như những hiện vật đã tìm thấy tại châu Âu, đồ gốm nguyên thủy với các họa tiết trang trí, và các vật nặng bằng đá của các lưới đánh cá. Số dân sử dụng công cụ đồ đồng về sau này đã để lại dấu tích trong các bức tường bằng đất và các đống chất thải trong quá trình nấu nướng ở [[vịnh Aniva]].
 
Trong số các [[thổ dân]] tại Sakhalin thì [[người Ainu]] sinh sống ở nửa phía nam, người Orok sinh sống ở khu vực giữa, và người Nivkh sống ở nửa phía bắc.<ref>{{citechú bookthích sách |title=Worldmark Encyclopedia of Cultures and Daily Life |last=Gall |first=Timothy L. |year= 1998 |publisher=Gale Research Inc |location=Detroit, Michigan |isbn=0-7876-0552-2 |pages=2–3 |url= |accessdate=}}</ref> Họ được ghi chép trong các thư tịch cổ Trung Hoa là các bộ lạc [[Tiên Ti]] và [[người Nanai|Hách Triết]], sinh sống dựa vào săn bắt cá.
 
==Liên hệ với các triều đại Trung Quốc==
[[Đế quốc Mông Cổ]] đã tiến hành một sỗ nỗ lực nhằm chinh phục cư dân bản địa Sakhalin từ khoảng năm 1264. Theo [[Nguyên sử]], chính sử của [[nhà Nguyên]], 3000 đại quân đội Mông Cổ đã tiến đánh đảo Khố Hiệt, đánh bại người ''Cốt Ngôi'' (骨嵬, ''Gǔwéi''), Sau đó, các trưởng lão ''Cốt Ngôi'' đã thực hiện các chuyến viếng thăm để triều cống cho đồn quân sự của nhà Nguyên. Đến năm 1284, người Cốt Ngôi phản lại nhà Nguyên, đến năm 1285 thì nhà Nguyên thiết lập Đông Chinh nguyên soái phủ để tăng cường quản lý vùng hạ du sông Amur và đảo Sakhalin. Đến năm 1308, Cốt Ngôi vương Thiện Nô đã sai người đến thỉnh cầu quy hàng, nhận mỗi năm nộp da và lông hải cẩu, rái cá.<ref name="conquestgao"/><ref name="gaoconquest"/> [[Người Nivkh]] và [[người Orok]] đầu hàng trước, còn [[người Ainu]] chịu khuất phục người Mông Cổ về sau đó.
 
Vào đầu thời [[nhà Minh]] (1368–1644), quan hệ triều cống được tái thiết lập. Năm 1412, nhà Minh chinh phục Khổ Ngột, tại vùng ven biển bắc bộ của đảo thiết lập "Nang Cáp Nhi vệ", tại lưu vực [[sông Poronay]] ở trung bộ thiết lập "Ba La hà vệ", tại đông bộ của đảo thiết lập nên "Ngột Liệt Hà vệ", lệ thuộc vào [[Nô Nhĩ Can đô ti]].<ref name="conquest"/> Sau khi thiết lập các cơ sở của người Hán tại vùng sông Amur, tức giữa thế kỷ 15, người Ainu tại Sakhalin đã thường xuyên đến các tiền đồn do nhà Minh kiểm soát để cống nạp.<ref name="conquest">{{citechú bookthích sách |title=The Conquest of Ainu Lands: Ecology and Culture in Japanese Expansion, 1590–1800 |last=Walker |first=Brett L. |year=2006 |publisher=University of California Press |location=Berkeley, Calif. |isbn=0-520-24834-1 |page=133 |url=http://books.google.com/?id=D5iOcHB3h5AC&lpg=PA134&pg=PA133 |accessdate=June 16, 2010}}</ref> Dưới triều Minh, người Hán gọi hòn đảo này là Khổ Ngột ({{zh|c=苦兀|p=Kǔwù}}), và sau đó là Khố Hiệt ({{zh|c=庫頁|p=Kùyè}}). Có một số bằng chứng về việc một thái giám triều Minh tên là [[Diệc Thất Cáp]] (亦失哈) đã thị sát Sakhalin vào năm 1413 vào một các cuộc thám hiển của ông ở hạ du Amur, ông đã ban tước hiệu của nhà Minh cho một tộc trưởng địa phương và cũng là người đã thiết lập nên Nô Nhĩ Can đô ti vào năm 1411.<ref name=tsai>{{citechú bookthích sách |title=Perpetual Happiness: The Ming Emperor Yongle |last=Tsai |first=Shih-Shan Henry |year= 2002 |origyear=2001 |publisher=University of Washington Press |location=Seattle, Wash |isbn= 0-295-98124-5 |pages=158–161 |url=http://books.google.com/?id=aU5hBMxNgWQC&lpg=PA159&pg=PA159 |accessdate=June 16, 2010}} Link is to partial text.</ref> Theo ''Thánh vũ kí'' ({{zh|c=聖武記}}) của [[Ngụy Nguyên]], [[nhà Thanh|Hậu Kim]] đã cử 400 quân đến Sakhalin vào năm 1616 do quan tâm đến việc những người ở miền bắc Nhật Bản có các tiếp xúc với khu vực, song sau đó đã dời đi khi nhận thấy không có đe dọa từ hòn đảo. Sau khi thành lập nhà Thanh, triều đình quy thuộc đảo Sakhalin thuộc quyền quản lý của Ninh Cổ Tháp phó đô thống. Sau năm 1715, triều đình nhà Thanh chuyển quyền quản lý đảo sang Tam Tính phó đô thống. "Dân nhu" sống trên đảo mỗi năm lại đến vùng hạ du sông Amur để cống nạp da chồn cho nhà Thanh thông qua các tiền đồn của triều đình.<ref name="conquest"/> Đến giữa thế kỷ 18, các quan chức nhà Thanh đã ghi vào sổ hộ tịch 56 nhóm họ; trong đó, nhà sử liệu nhà Thanh lưu ý rằng sáu thị tộc và 148 hộ người Ainu và người Nivkh nằm dưới sự bảo trợ hành chính của nhà Thanh tại Sakhalin.<ref>{{citechú thích booksách |title=The Conquest of Ainu Lands |last=Walker |first=Brett L. |pages=134–135 |url=http://books.google.com/?id=D5iOcHB3h5AC&lpg=PA134&pg=PA134#v=twopage&q |accessdate=June 16, 2010 |isbn=978-0-520-24834-2 |date=2006-02-21}}</ref>
 
===Người châu Âu và Nhật Bản thám hiểm===
Dòng 56:
[[Martin Gerritz de Vries]] là người châu Âu đầu tiên được ghi nhận đã đến thăm Sakhalin, ông đã vẽ bản đồ [[mũi Patience]] và [[mũi Aniva]] trên bờ biển phía đông của đảo vào năm 1643. Tuy nhiên, vị hạm trưởng người Hà Lan đã không nhận thức được Sakhalin là một hòn đảo, và các bản đồ trong thế kỷ 17 thường thể hiện các điểm trên đảo, cũng như Hokkaido, là các bộ phận của lục địa.
 
Là một phần trong chương trình vẽ bản đồ toàn quốc Thanh-Pháp, hoàng đế [[Khang Hi]] đã phái các linh mục [[Dòng Tên]] là [[Jean-Baptiste Régis]], [[Pierre Jartoux]], và [[Xavier Ehrenbert Fridelli]] cùng một nhóm người Mãn đến viếng thăm vùng hạ du [[sông Amur]] vào năm 1709,<ref>{{citechú bookthích sách |title=Description géographique, historique, chronologique, politique, et physique de l'empire de la Chine et de la Tartarie chinoise, enrichie des cartes générales et particulieres de ces pays, de la carte générale et des cartes particulieres du Thibet, & de la Corée; & ornée d'un grand nombre de figures & de vignettes gravées en tailledouce |volume=1 |last=Du Halde |first=Jean-Baptiste |authorlink=Jean-Baptiste Du Halde |year= 1736 |publisher=H. Scheurleer |location=La Haye |isbn=[none] |page= xxxviii |url=http://www.archive.org/stream/descriptiongog01duha#page/n41/mode/2up |accessdate=June 16, 2010}}</ref> và họ đã nghe những người bản địa ở hạ du Amur nói về sự hiện diện của hòn đảo ngoài biển ở gần đó. Các linh mục dòng Tên đã nghe được rằng những người dân trên đảo chăn nuôi [[tuần lộc]] giỏi. Họ báo cáo rằng những người ở lục địa sử dụng một số tên để gọi hòn đảo, song ''Saghalien anga bata'', nghĩa là "đảo ở cửa sông đen" là tên phổ biến nhất, trong khi người dân bản địa này hoàn toàn không biết về tên gọi "Huye" (có lẽ là "Khố Hiệt", 庫頁, Kùyè ) mà các linh mục nghe thấy ở Bắc Kinh.<ref>{{citechú thích booksách |title=Description géographique, historique, chronologique, politique, et physique de l'empire de la Chine et de la Tartarie chinoise, enrichie des cartes générales et particulieres de ces pays, de la carte générale et des cartes particulieres du Thibet, & de la Corée; & ornée d'un grand nombre de figures & de vignettes gravées en tailledouce |volume=4 |last=Du Halde |first=Jean-Baptiste |authorlink=Jean-Baptiste Du Halde |year= 1736 |publisher=H. Scheurleer |location=La Haye |isbn=[none] |pages= 14–16 |url=http://www.archive.org/stream/descriptiongog04duha#page/n23/mode/2up |accessdate=June 16, 2010}} The people whose name the Jesuits recorded as ''Ke tcheng ta tse'' ("[[Hezhen]] Tatars") lived, according to the Jesuits, on the Amur below the mouth of the [[Dondon River]], and were related to the ''Yupi ta tse'' ("Fishskin Tatars") living on the Ussuri and the Amur upstream from the mouth of the Dondon. The two groups might thus be ancestral of the [[người Ulch|Ulch]] and [[người Nani|Nanai]] people known to latter ethnologists; or, the "Ke tcheng" might in fact be [[người Nivkh|Nivkhs]].</ref>
 
[[File:La-Perouse-Chart-of-Discoveries.jpg|thumb|La Perouse đã vẽ bản đồ hầu hết bờ biển tây nam của Sakhalin (hay "Tchoka", do họ nghe thấy người dân bản địa gọi như vậy) vào năm 1787]]
Dòng 92:
[[File:Border Security of the 50th parallel of north.JPG|thumb|260px|Binh lính Nhật Bản bên mốc biên giới tại 50° vĩ Bắc]]
 
Trong tổng số 448.000 cư dân người Nhật sinh sống tại Nam Sakhalin vào năm 1944, một lượng đáng kể đã được sơ tán trong khoảng thời gian cuối của chiến tranh, song vẫn còn lại 300.000 hoặc tương đương ở lại đảo trong vài năm nữa.<ref>{{citechú bookthích sách |title=A History of the Peoples of Siberia: Russia's North Asian Colony 1581–1990 |last= Forsyth |first= James |year= 1994 |publisher=Cambridge University Press |location=Cambridge, UK |isbn= 0-521-47771-9 |page= 354 |url=http://books.google.com/?id=nzhq85nPrdsC |accessdate= |origyear=1992}}</ref> Trong khi phần lớn người Nhật đã di tản đến Nhật Bản trong giai đoạn 1946–1950, thì hàng chục nghìn người gốc Triều Tiên (và một số vợ chồng người Nhật của họ) vẫn ở lại Liên Xô.<ref>{{citechú thích booksách |title=The Citizenship Law of the USSR |last= Ginsburgs |first= George |year= 1983 |publisher= Martinis Nijhoff Publishers |location=The Hague |series=Law in Eastern Europe No. 25 |isbn=90-247-2863-0 |pages=320–325 |url=http://books.google.com/?id=KHUYRM2527sC |accessdate=}}</ref><ref>Sandford, Daniel, "[http://www.bbc.co.uk/news/world-asia-pacific-14278362 Sakhalin memories: Japanese stranded by war in the USSR]", ''[[BBC]]'', 3 tháng 8 năm 2011.</ref>
 
===Lịch sử gần đây===
Dòng 103:
Sakhalin tách biệt với lục địa qua [[eo biển Tatar]] hẹp và nông, thường bị đóng băng vào mùa đông ở phần hẹp nhất của nó, và tách biệt với [[Hokkaidō]], ([[Nhật Bản]]) qua eo biển Soya hay [[eo biển La Pérouse]]. Sakhalin là đảo lớn nhất tại Nga, dài {{convert|948|km|mi|abbr=on}}, và rộng {{convert|25|to|170|km|mi|abbr=on|0}}, diện tích đạt {{convert|72492|km2|sqmi|abbr=on|0}}.<ref name="islands.unep.ch"/>
 
Còn nhiều điều chưa hoàn chỉnh trong kiến thức về kết cấu [[sơn văn học|sơn văn]] và địa chất của đảo. Một giải thuyết cho rằng Sakhalin đã nổi lên từ vòng cung đảo Sakhalin.<ref name="FarEast">{{citechú bookthích sách|last=Ivanov|first=Andrey |title=The Physical Geography of Northern Eurasia |editor=Shahgedanova, Maria |publisher=Oxford University Press |location=Oxford, UK |date=March 27, 2003|series=Oxford Regional Environments|volume=3|pages=428–429 |chapter=18 The Far East |isbn=978-0-19-823384-8 |url=http://books.google.com/?id=8CFiT3qbN5UC&pg=PA428&lpg=PA428 |accessdate=2008-07-16}}</ref> Gần hai phần ba Sakhalin là đồi núi. Có hai dãy núi chạy song song từ bắc đến nam đảo, đạt đến cao độ 600–1500 m (2000–5000&nbsp;ft). Đỉnh cao nhất của dãy núi phía Tây là Ichara với cao độ {{convert|1481|m|ft|abbr=on|0}}, còn đỉnh cao nhất dãy núi phía Đông là Lopatin với cao độ {{convert|1609|m|ft|abbr=on|0}}, đó cũng là đỉnh cao nhất trên đảo. Thung lũng Tym-Poronaiskaya chia tách hai dãy núi. Các dãy núi Susuanaisky và Tonino-Anivsky đi ngang qua đảo ở phía nam, trong khi đồng bằng đầm lầy Bắc Sakhalin chiếm phần lớn miền Bắc.<ref name="Ivlev, A. M 1974. Pages 9-28">Ivlev, A. M. Soils of Sakhalin. New Delhi: Indian National Scientific Documentation Centre, 1974. Pages 9-28.</ref>
 
[[File:Okhotskoye beach 1.jpg|thumb|left|Bờ biển Okhotsk của đảo Sakhalin]]
Dòng 117:
== Nhân khẩu ==
[[File:V.M. Doroshevich-Sakhalin. Part II. Nivkh Children.png|thumb|225px|Trẻ em người Nivkh tại Sakhalin khoảng năm 1903]]
Vào đầu thế kỷ, khoảng 32.000 người Nga (trong đó hơn 22.000 người bị kết án tù) đã sinh sống ở Sakhalin cùng với hàng nghìn cư dân bản địa. Dân số hòn đảo đã tăng lên 546.695 theo điều tra dân số năm 2002, 83% trong đó là [[người Nga]], theo sau là [[người Triều Tiên]] với khoảng 30.000 (5,5%), [[người Ukraina]] và [[người Tatar]], [[người Yakut]] và [[người Evenk]]. Cư dân bản địa bao gồm khoảng 2.000 [[người Nivkh]] và 750 [[người Orok]]. Người Nivkh ở phía bắc sinh sống nhờ đánh cá và săn bắn. Năm 2008, có 6.416 người được sinh ra và 7.572 người tử vong.<ref>{{citechú thích web |url=http://www.vostokmedia.com/n36536.html |title=Сахалин становится островом близнецов? |trans_title =Sakhalin is an island of twins? |author= |date=February 134, 2009 |language=Russian |publisher=Восток Медиа [Vostok Media] |accessdate=June 16, 2010}}</ref>
 
Thủ phủ [[Yuzhno-Sakhalinsk]] là một thành phố có khoảng 175.000 cư dân, và có một thiểu số lớn người Triều Tiên, thường được gọi là người Triều Tiên Sakhalin, họ đã bị người Nhật ép buộc đưa đến đảo trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]] để làm việc trong các mỏ than. Phần lớn cư dân Sakhalin sống tại nửa phía nam của hòn đảo, chủ yếu tập trung quanh Yuzhno-Sakhalinsk và hai đô thị cảng [[Kholmsk]] và [[Korsakov (thị trấn)|Korsakov]].
Dòng 126:
Biển Okhotsk đảm bảo Sakhalin có một khí hậu lạnh song ẩm ướt, thay đổi từ [[khí hậu lục địa ẩm]] ([[Phân loại khí hậu Köppen|Köppen]] ''Dfb'') ở phía nam đến [[khí hậu cận Bắc Cực]] (''Dfc'') ở miền trung và miền bắc. Sự ảnh hưởng của hải dương khiến cho khí hậu trên đảo mát hơn rất nhiều vào mùa hè so với các thành phố cùng vĩ độ trong nội địa như [[Cáp Nhĩ Tân]] hay [[Irkutsk]], song khiến cho mùa đông có nhiều tuyết rơi trong khi vẫn cực kỳ lạnh giá, chỉ ấm hơn vài độ so với các thành phố Đông Á có cùng vĩ độ. Mùa hè trên đảo cũng khiến cho con người có cảm giác khó chịu với sương mù và ít ánh nắng mặt trời<ref>[http://sakhmeteo.ru/en/ Sakhalin Hydrometeorological Service, Truy cập 19 tháng 4 năm 2011]</ref> và điều kiện liên tục ẩm ướt thích hợp cho [[muỗi]] phát triển.
 
Sakhalin có lượng mưa lớn, do có gió mạnh về đất liền vào mùa hè và các cơn bão tại Bắc Thái Bình Dương ảnh hưởng đến đảo với tần suất cao vào mùa thu. Lượng mưa thay đổi từ {{convert|500|mm|in}} ở bờ biển tây bắc đến hơn {{convert|1200|mm|in}} ở vùng đồi núi phía nam. Ngược với vùng nội địa Đông Á, gió thổi về đất liền đảm bảo cho Sakhalin có mưa quanh năm và lên đến đỉnh vào mùa thu.<ref> name="Ivlev, A. M. Soils of Sakhalin. New Delhi: Indian National Scientific Documentation Centre, 1974. Pages 9-28.<"/ref> Lớp băng tuyết có thể dày đến 5 mét tại các khu vực đồi núi của đảo.
 
{{climate chart
Dòng 164:
Mạng lưới đường sắt Sakhalin trải rộng từ [[Nogliki]] ở phía bắc đến [[Korsakov (thị trấn)|Korsakov]] ở phía nam. Đường sắt của Sakhalin kết nối với mạng lưới đường sắt còn lại của Nga qua một tuyến phà đường sắt hoạt động giữa [[Vanino]] và [[Kholmsk]].
 
Đến năm 2004, đường sắt Sakhalin mới chuyển đổi từ khổ 1.067 &nbsp;mm của Nhật sang khổ 1.520 &nbsp;mm của Nga.<ref>{{citechú thích web |url=http://www.eng.rzd.ru/isvp/public/rzdeng?STRUCTURE_ID=193 |title=Sakhalin Railways |year=2007 |publisher=[[Russian Railways|JSC Russian Railways]] |accessdate=June 17, 2010}}</ref><ref>{{citechú thích web |url= |title= Steam and the Railways of Sakhalin Island |last=Dickinson |first=Rob |date= |work= |publisher=International Steam Page |archiveurl= http://web.archive.org/web/20080217154833/http://www.steam.dial.pipex.com/trains/russia02.htm |archivedate=February 17, 2008 |accessdate=June 16, 2010}}</ref> Các đầu máy hơi nước D51 của Nhật Bản vẫn được đường sắt Liên Xô sử dụng cho đến năm 1979.
 
Bên cạnh mạng lưới của Đường sắt Nga, cho đến tháng 12 năm 2006 công ty dầu khí địa phương (Sakhalinmorneftegaz) điều hàng một tuyến đường sắt khổ hẹp (750&nbsp;mm) kéo dài {{convert|228|km|mi|sp=us}} từ Nogliki xa về phía bắc đến [[Okha, Russia|Okha]] ([[:ru:Узкоколейная железная дорога Оха — Ноглики|Узкоколейная железная дорога Оха — Ноглики]]). Trong những năm cuối, tuyến đường sắt này dần dần xấu đi; dịch vụ vận chuyển này đã chấm dứt vào tháng 12 năm 2006, và tuyến đường sắt đã bị tháo dỡ trong năm 2007–2008.<ref>{{citechú thích web |url=http://sbchf.narod.ru/19/ohanog_2006.html |title=Узкоколейная железная дорога Оха — Ноглики |trans_title=Okha-Nogliki narrow-gauge railway |first=Serguei (Болашенко, С.) |last=Bolashenko |date=July 6, 2006 |work=САЙТ О ЖЕЛЕЗНОЙ ДОРОГЕ |publisher= |language=Russian |accessdate=June 17, 2010}}</ref>
 
===Hàng không===
Dòng 172:
 
===Dự án liên kết cố định===
Ý tưởng xây dựng một cây [[cầu]] giữa Sakhalin và lục địa Nga đã được thảo luận lần đầu trong thập niên 1930. Đến thập niên 1940, đã có một nỗ lực nhằm kết nối lục địa với đảo qua một đường hầm dưới biển dài 10&nbsp;km song nỗ lực này đã chết yểu.<ref>{{citechú thích web |title=Railway a Gauge of Sakhalin's Future |last=''[[The Moscow Times]]'' |first= |work=The RZD-Partner |date=July 7, 2008 |url=http://www.rzd-partner.com/press/2008/07/07/327041.html |accessdate=June 17, 2010}}</ref> Các công nhân được cho là đã thực hiện được một nửa chiều dài đường hầm trước khi dự án bị [[Nikita Khrushchev]] bãi bỏ. Năm 2000, chính phủ Nga đã hồi sinh ý tưởng này, có thêm một đề xuất là có thể là xây dựng một cây cầu dài 40 &nbsp;km giữa Sakhalin và đảo Hokkaidō của Nhật Bản, từ đó Nhật Bản có thể kết nổi với mạng lưới đường sắt Âu-Á. Tuy nhiên, ý tưởng này đã nhận được sự hoài nghi của chính phủ Nhật Bản và được xếp vào ngăn kéo sau khi chi phí ước tính lên tới 50 tỉ Đô la Mỹ.
 
Tháng 11 năm 2008, tổng thống Nga khi đó là [[Dmitry Medvedev]] đã công bố sự hỗ trợ của chính phủ cho việc xây dựng [[đường hầm Sakhalin]], cùng với việc phải cải tạo khổ đường sắt của các tuyến trên đảo theo khổ tiêu chuẩn của Nga, với chi phí ước tính 300–330 tỉ [[rúp]].<ref>{{citechú thích web |url=http://primamedia.ru/news/show/?id=85418 |title=Президент России хочет остров Сахалин соединить с материком |trans_title=President of Russia wants to join Sakhalin Island to the mainland |date=November 19, 2008 |work= |publisher=PrimaMedia |language=Russian |accessdate=June 17, 2010}}</ref>
 
==Kinh tế==
Sakhalin có "[[khu vực một của nền kinh tế|khu vực một của nền kinh tế]]" dựa vào xuất khẩu [[dầu khí]] và [[khí thiên nhiên]], khai thác than đá, [[lâm nghiệp]], và [[đánh cá]]. Ngành nông nghiệp hạn chế với các cây trồng như [[lúa mạch đen]], [[lúa mì]], [[yến mạch]], [[đại mạch]] và [[rau]], song thời gian sinh trưởng trung bình của chúng ít hơn 100 ngày.<ref> name="Ivlev, A. M. Soils of Sakhalin. New Delhi: Indian National Scientific Documentation Centre, 1974. Pages 9-28.<"/ref>
 
Sau sự sụp đổ của Liên Xô và tự do hóa kinh tế, Sakhalin đã trải qua thời kỳ bùng nổ dầu khí với các hoạt động thăm dò và khai thác được mở rộng với sự tham gia của hầu hết các [[công ty đa quốc gia|tập đoàn đa quốc gia]]. Trữ lượng dầu mỏ và khí thiên nhiên của Sakhalin được tính tính đạt khoảng 14 tỉ [[thùng (đơn vị)|thùng]] (2,2&nbsp;km³) dầu mỏ và 96 tỉ tỉ ft³ (2.700&nbsp;km³) khí thiên nhiên và đang tiến hành mở rộng theo các hợp đồng thỏa thuận phân chia sản phẩm liên quan đến các công ty dầu mỏ quốc tế như [[ExxonMobil]] và [[Royal Dutch Shell|Shell]].