Khác biệt giữa bản sửa đổi của “USS Yorktown (CV-5)”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.6.4) (robot Thay: ru:USS Yorktown (CV-5)
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n chú thích, replaced: {{cite web → {{chú thích web, {{cite book → {{chú thích sách, {{cite journal → {{chú thích tạp chí, {{cite news → {{chú thích báo
Dòng 1:
{{Dablink|Về những tàu chiến Hoa Kỳ khác mang cùng tên, xin xem [[USS Yorktown]].}}
 
 
{|{{Infobox ship begin}}
Hàng 47 ⟶ 46:
|Ship complement=2.217 sĩ quan và thủy thủ (1941)
|Ship crew=
|Ship sensors= radar [[RCA]] [[CXAM]]<ref name="RADAR">{{citechú journalthích tạp chí|author=Macintyre, Donald, CAPT RN |title=Shipborne Radar |publisher=United States Naval Institute Proceedings |date=tháng 9 năm 1967}}</ref>
|Ship EW=
|Ship armament=8 × pháo đa dụng [[pháo 127 mm (5 inch)/38 caliber|127 mm (5 inch)/38 caliber]] <br/> 4 × pháo bốn nòng [[Pháo 28 mm (1,1 inch)/75 caliber|28 mm (1,1 inch)/75 caliber]] <br/> 24 × súng máy [[M2 Browning .50 cal]]<br />24 x pháo [[Oerlikon 20 mm]] (được bổ sung vào đầu năm 1942)
Hàng 81 ⟶ 80:
 
== Tuần tra Trung lập ==
''Yorktown'' rời [[Trân Châu Cảng]] ngày [[20 tháng 4]] năm [[1941]] cùng với các [[tàu khu trục]] [[USS Warrington (DD-383)|''Warrington'']], [[USS Somers (DD-381)|''Somers'']] và [[USS Jouett (DD-396)|''Jouett'']]; hướng về phía Đông Nam, đi qua kênh đào Panama trong đêm [[6 tháng 5|6]] – [[7 tháng 5]], và đến [[Bermuda]] vào ngày [[12 tháng 5]]. Từ lúc đó cho đến khi Hoa Kỳ tham gia chiến tranh, ''Yorktown'' thực hiện bốn chuyến tuần tra tại Đại Tây Dương, kéo dài từ [[Newfoundland]] đến Bermuda dài tổng cộng 28.392 &nbsp;km (17.642 dặm) để thực thi vai trò trung lập của Hoa Kỳ.
 
Cho dù [[Adolf Hitler]] đã ngăn cấm các [[tàu ngầm]] của ông tấn công tàu bè của Mỹ, những người chỉ huy trên các tàu chiến Mỹ đã không biết được chính sách này và đã hoạt động như thể đang trong thời chiến tại Đại Tây Dương.
 
Ngày [[28 tháng 10]], trong khi ''Yorktown'', thiết giáp hạm [[USS New Mexico (BB-40)|'' New Mexico'']] và các tàu chiến Hoa Kỳ khác đang bảo vệ một đoàn tàu vận tải, một tàu khu trục đã bắt được tín hiệu của một tàu ngầm và đã thả mìn sâu để tấn công, trong khi bản thân đoàn tàu vận tải phải chuyển hướng khẩn cấp về mạn phải, lần đầu tiên trong số ba lần thay đổi hành trình khẩn cấp trong chuyến đi. Chiều hôm đó, việc sửa chữa động cơ trên một trong những chiếc tàu vận tải trong đoàn, chiếc ''Empire Pintail'', đã làm giảm tốc độ của đoàn tàu chỉ còn 11 knot (20 &nbsp;km/h).
 
Trong đêm, các tàu chiến Mỹ bắt được tín hiệu radio Đức khá mạnh, chứng tỏ có sự hoạt động của tàu ngầm ở khu vực lân cận. Chuẩn Đô đốc [[H. Kent Hewitt]], chỉ huy lực lượng hộ tống, đã gửi một tàu khu trục đi càn quét phía sau đoàn tàu vận tải để tiêu diệt chiếc U-boat hay ít nhất cũng xua đuổi được nó.
Hàng 116 ⟶ 115:
''Yorktown'' sau đó quay về Trân Châu Cảng để được tiếp liệu trước khi trở ra khơi vào ngày [[14 tháng 2]], hướng về phía [[biển Coral]]. Vào ngày [[6 tháng 3]], nó gặp gỡ Lực lượng đặc nhiệm TF 11 - được hình thành chung quanh chiếc ''Lexington'' và dưới sự chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Wilson Brown]] - và hướng về phía [[Rabaul]] và [[Gasmata]] để tấn công các tàu Nhật ở đây trong một nỗ lực nhằm ngăn chặn sự xâm lấn của Nhật cũng như yểm trợ việc đổ bộ quân Đồng Minh xuống [[Nouméa]], [[Tân Caledonia]]. Tuy nhiên, khi hai chiếc tàu sân bay - được bao bọc bởi một lực lượng hùng hậu gồm tám tàu tuần dương hạng nặng kể cả chiếc tàu Australia [[HMAS Australia (D84)|HMAS ''Australia'']] và 14 tàu khu trục - di chuyển về hướng [[New Guinea]], quân Nhật tiếp tục hướng về phía Australia bằng một cuộc đổ bộ vào ngày [[7 tháng 3]] tại [[vịnh Huon]], trong khu vực [[Salamaua]]-[[Lae]] tận cùng phía Đông New Guinea.
 
Tin tức về chiến dịch của quân Nhật đã buộc Đô đốc Brown phải thay đổi mục tiêu của Lực lượng Đặc nhiệm TF 11 từ Rabaul sang khu vực Salamaua-Lae. Sáng ngày [[10 tháng 3]] năm [[1942]], các tàu sân bay Mỹ đã tung những chiếc máy bay của nó từ [[vịnh Papua]]. Các phi đội của chiếc ''Lexington'' cất cánh lúc 07 giờ 49 phút, và 21 phút sau đó ''Yorktown'' nối tiếp theo sau. Trong khi việc lựa chọn vịnh này làm điểm xuất phát cuộc tấn công có nghĩa là những chiếc máy bay phải bay một quãng đường 200 &nbsp;km (125 dặm) vượt qua [[dãy núi Owen Stanley]] - một tầm bay vượt quá các điều kiện bay tốt nhất, cách tiếp cận này đem đến sự an toàn cho lực lượng đặc nhiệm và đảm bảo sự bất ngờ.
 
Trong cuộc tấn công sau đó, những chiếc SBD của ''Lexington'' thuộc Phi đội Tuần tiểu 2 (VS-2) thực hiện ném bom bổ nhào các tàu Nhật tại Lae lúc 09 giờ 22 phút. Các phi đội máy bay phóng ngư lôi và máy bay ném bom (VT-2 và VB-2) tấn công các tàu bè tại Salamaua vào lúc 09 giờ 38 phút. Các máy bay tiêm kích của nó (VF-2) chia làm hai tốp tấn công bốn máy bay: một nhóm bắn phá Lae còn nhóm kia nhắm vào Salamaua. Những chiếc máy bay của ''Yorktown'' tiếp nối theo sau những chiếc thuộc "Lady Lex" (tên lóng của ''Lexington''). Các phi đội VB-5 và VT-5 tấn công các tàu Nhật trong khu vực Salamaua vào lúc 09 giờ 50 phút, trong khi phi đội VS-5 nhắm vào các lực lượng phối thuộc thả neo gần bờ ở Lae. Những chiếc máy bay tiêm kích của phi đội VF-42 bay tuần tra chiến đấu trên không bên trên Salamaua cho đến khi họ xác định không có lực lượng đối đầu trên không, rồi bắn phá các mục tiêu trên mặt đất và các thuyền nhỏ trong cảng.
Hàng 122 ⟶ 121:
Sau khi thực hiện các nhiệm vụ, các máy bay Mỹ quay trở lại tàu sân bay, và 103 máy bay trong tổng số 104 chiếc được tung ra đã quay về an toàn vào trưa hôm đó. Một chiếc SBD-2 bị bắn rơi bởi hỏa lực pháo phòng không Nhật Bản. Cuộc không kích vào Salamaua và Lae là cuộc tấn công đầu tiên của nhiều phi công trên cả hai chiếc tàu sân bay; và trong khi kết quả về độ chính xác của những trái ngư lôi và bom còn thấp so với mức đạt được trong các hoạt động sau này, chiến dịch này cung cấp cho các phi công các kinh nghiệm vô giá, cho phép họ hoạt động rất tốt trong các trận [[trận chiến biển Coral|biển Coral]] và [[trận Midway|Midway]] sau này.
[[Tập tin:Brazos AO-4 refueling Yorktown CV-5.jpg|nhỏ|phải|''Yorktown'' được tiếp nhiên liệu từ chiếc [[USS Brazos (AO-4)|''Brazos'']] tại trung Thái Bình Dương vào [[tháng 7]] năm [[1940]].]]
Lực lượng Đặc Nhiệm TF 11 rút lui với vận tốc 20 knot (23 &nbsp;mph, 37km37&nbsp;km/h) hướng về phía Đông Nam cho đến khi trời tối, khi các chiếc tàu chuyển hướng sang phía Đông với vận tốc 15 knot (17 &nbsp;mph, 28 &nbsp;km/h) và gặp gỡ Đội Đặc nhiệm TG 11.7, bốn [[tàu tuần dương hạng nặng]] và bốn tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Australia [[John Crace]], nhằm hộ tống các tàu sân bay trên đường đến New Guinea.
 
''Yorktown'' tiếp tục tuần tra trên khu vực biển Coral, ở ngoài khơi cho đến tận [[tháng 4]], bên ngoài tầm của những chiếc máy bay Nhật đặt căn cứ trên đất liền và sẵn sàng thực hiện các hoạt động tấn công mỗi khi có cơ hội. Sau trận không kích Lae-Salamaua, tình hình tại khu vực Nam Thái Bình Dương xem ra tạm thời ổn định, và ''Yorktown'' cùng những tàu phối thuộc của Lực lượng Đặc Nhiệm TF 17 quay về cảng [[Tongatapu]] trong [[quần đảo Tonga]] vốn còn đang xây dựng để thực hiện các bảo trì cần thiết, vì nó đã ở ngoài khơi liên tục sau khi rời khỏi Trân Châu Cảng vào ngày [[14 tháng 2]].
Hàng 132 ⟶ 131:
Lúc 15 giờ 17 phút ngày hôm sau, hai chiếc Dauntless thuộc phi đội VS-5 nhìn thấy một tàu ngầm Nhật chạy trên mặt nước. Ba chiếc Devastator cất cánh từ ''Yorktown'' nhanh chóng bay đến nơi và thực hiện cuộc tấn công nhưng chỉ đuổi được chiếc tàu ngậm lặn sâu xuống.
 
Sáng ngày [[3 tháng 5]], các lực lượng đặc nhiệm TF 11 và TF 17 ở cách nhau 160 &nbsp;km (100 dặm) thực hiện việc tiếp nhiên liệu. Lúc nữa đêm, Đô đốc Fletcher nhận được tin từ các máy bay đặt căn cứ tại Australia rằng các tàu vận tải Nhật đã đổ quân và thiết bị lên [[Tulagi]] thuộc [[quần đảo Solomon]]. Đến nơi không lâu sau khi người Australia rút lui khỏi nơi này, quân Nhật khởi sự xây dựng một căn cứ [[thủy phi cơ]] để hỗ trợ các đòn tấn công về phía Nam.
 
''Yorktown'' tiến lên phía Bắc với vận tốc 27 knot (31 &nbsp;mph, 50 &nbsp;km/h). Vào lúc bình minh ngày [[4 tháng 5]], nó đến tầm tấn công các căn cứ đầu cầu của Nhật vừa mới được xây dựng và tung ra đợt không kích đầu tiên vào lúc 07 giờ 01 phút, gồm 18 chiếc F4F-3 thuộc Phi đội VF-42, 12 chiếc TBD thuộc VT-5 và 28 chiếc SBD của VS và BY-5. Lực lượng không quân của chiếc ''Yorktown'' đã thực hiện ba cuộc tấn công liên tiếp lên các tàu bè đối phương và các cơ sở trên bờ tại Tulagi và [[Gavutu]] trên bờ biển phía Nam của [[đảo Florida]] trong quân đảo Solomons. Với 22 quả ngư lôi và 76 quả bom 454 &nbsp;kg (1.000 &nbsp;lb) trong ba đợt tấn công, các máy bay của ''Yorktown'' đã đánh chìm tàu khu trục Nhật ''Kikuzuki'', ba tàu quét mìn và bốn xà lan. Thêm vào đó, Liên đội 5 còn bắn rơi năm thủy phi cơ đối phương, với thiệt hại là hai chiếc F4F (các phi công được cứu thoát) và một chiếc TBD (đội bay bị tổn thất).
 
Cùng ngày hôm đó, Lực lượng Đặc nhiệm TF 44, một nhóm tàu tuần dương và tàu khu trục dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Anh Crace, gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm TF11 của chiếc ''Lexington'', hoàn tất việc sáp nhập một lực lượng Đồng Minh hỗn hợp trước Trận chiến biển Coral quyết định.
Hàng 164 ⟶ 163:
=== Trận Midway ===
{{main|Trận Midway}}
[[Tập tin:G13065_USS_Yorktown_Pearl_Harbor_May_1942G13065 USS Yorktown Pearl Harbor May 1942.jpg|nhỏ|phải|''Yorktown'' trong ụ tàu không lâu trước [[Trận Midway]].]]
Với các thông tin tình báo có được, Đô đốc Nimitz bắt đầu vạch kế hoạch phòng thủ Midway một cách có hệ thống, tăng cường mọi lực lượng có thể có được bao gồm nhân lực, máy bay và pháo đến Midway. Thêm vào đó, ông cũng tập trung lực lượng hải quân dưới quyền để đối đầu cùng đối phương trên biển. Trong sự chuẩn bị đó, ông triệu hồi Lực lượng Đặc nhiệm TF 16 bao gồm ''Enterprise'' và ''Hornet'' (CV-8) quay về Trân Châu Cảng để được bổ sung tiếp liệu gấp.
 
''Yorktown'' cũng nhận được lệnh quay về Hawaii; và nó về đến Trân Châu Cảng ngày [[27 tháng 5]]. Thực hiện một công việc gần như là kỳ diệu, công nhân của xưởng tàu đã làm việc suốt ngày đêm để thực hiện các sửa chữa đủ cho phép chiếc tàu có thể tiếp tục ra khơi. Lực lượng không quân của nó, đa số là có kinh nghiệm nhưng đã bị kiệt sức, được bổ sung bằng máy bay và phi công của chiếc ''Saratoga'' (CV-3) lúc đó còn đang hướng về vùng biển Hawaii sau khi được hiện đại hóa ở vùng bờ Tây. Sẵn sàng để tham chiến, chiếc ''Yorktown'' khởi hành như là hạt nhân của Lực lượng đặc nhiệm TF 17 vào ngày [[30 tháng 5]].
 
Về phía Đông Bắc Midway, ''Yorktown'', treo cờ hiệu của Chuẩn Đô đốc Fletcher, gặp gỡ Lực lượng đặc nhiệm TF 16 dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc [[Raymond A. Spruance]] và duy trì một khoảng cách 16 &nbsp;km (10 dặm) về phía Bắc. Các chuyến bay tuần tra xuất phát từ cả Midway lẫn các tàu sân bay được thực hiện đều đặn trong những ngày đầu [[tháng 6]]. Sáng sớm ngày [[4 tháng 6]] khi hừng đông vừa ló dạng, ''Yorktown'' tung ra một nhóm mười chiếc [[SBD Dauntless|Dauntless]] thuộc phi đội VB-5 tìm kiếm trong một vùng bán kính 160 &nbsp;km (100 dặm) về phía Bắc nhưng không tìm thấy được gì.
 
Trong khi đó, những chiếc [[PBY]] cất cánh từ Midway đã nhìn thấy lực lượng Nhật Bản đang tiến đến gần và chuyển tiếp lệnh báo động đến các lực lượng Hoa Kỳ đang phòng thủ hòn đảo san hô chiến lược. Đô đốc Fletcher, người nắm quyền chỉ huy chiến thuật, ra lệnh cho Lực lượng Đặc nhiệm TF 16 của Đô đốc Spruance truy tìm lực lượng tàu sân bay đối phương và tấn công chúng ngay khi tìm thấy.
Hàng 179 ⟶ 178:
Tuy nhiên, việc mất mát những chiếc máy bay ném ngư lôi cũng mang lại một kết quả. Những chiếc máy bay tiêm kích tuần tra trên không Nhật Bản đã rời bỏ vị trí bảo vệ các tàu sân bay trên tầm cao và tập trung vào những chiếc Devastator đang bay sát mặt biển. Bầu trời trên cao bị bỏ ngõ cho những chiếc Dauntless đến từ những chiếc ''Yorktown'' và ''Enterprise''.
Hầu như không bị ngăn trở, các máy bay ném bom bổ nhào của chiếc ''Yorktown'' nhắm vào [[Sōryū (tàu sân bay Nhật)|Sōryū]], đánh trúng ba phát chí mạng bằng bom 450 &nbsp;kg (1.000 &nbsp;lb), biến nó thành một địa ngục. <ref>{{citechú thích web | title = Soryu (Aircraft Carrier, 1937-1942) | work = Online Library of Selected Images: Japanese Navy Ships | publisher = Department Of The Navy -- Naval Historical Center | date = 21 tháng 3 năm 1999 | url = http://www.history.navy.mil/photos/sh-fornv/japan/japsh-s/soryu.htm | accessdate = 2006-12-06 }}</ref> Trong lúc đó, máy bay của ''Enterprise'' đã đánh trúng [[Akagi (tàu sân bay Nhật)|Akagi]] và [[Kaga (tàu sân bay Nhật)|Kaga]], biến chúng thành những xác tàu trong phút chốc. Bom ném ra từ những chiếc Dauntless trúng vào các tàu sân bay Nhật khi chúng đang trong quá trình tiếp nhiên liệu và tiếp bom đạn cho máy bay, và sự kết hợp của nổ bom và xăng là một thảm họa cho phía Nhật Bản.
Ba tàu sân bay Nhật đã bị mất. Tuy vậy, chiếc thứ tư là [[Hiryū (tàu sân bay Nhật)|Hiryū]] vẫn còn đang tự do. Tách biệt khỏi những chiếc tàu sân bay kia, nó tung ra một lực lượng tấn công bao gồm 18 chiếc "Vals" và nhanh chóng tìm thấy ''Yorktown''.
Hàng 185 ⟶ 184:
Ngay khi những kẻ tấn công được nhận diện trên màn hình radar của chiếc ''Yorktown'' vào khoảng 13 giờ 29 phút, nó ngưng việc tiếp nhiên liệu cho những chiếc máy bay tiêm kích tuần tra trên không trên sàn đáp và nhanh chóng chuẩn bị hành động. Những chiếc máy bay ném bom bổ nhào quay trở về được lệnh tránh xa tạo khoảng trống cho hỏa lực phòng không. Những chiếc Dauntless được lệnh bay trên tầm cao nhằm tạo ra một hàng rào tuần tra trên không. Một thùng xăng phụ trữ lượng 800 gallon cũng được đẩy bỏ qua đuôi tàu nhằm hạn chế nguy cơ cháy. Thủy thủ đoàn tháo rỗng các ống dẫn nhiên liệu, đóng chặt và cố định tất cả các ngăn.
 
Tất cả những chiếc máy bay tiêm kích của ''Yorktown'' đều được tung ra để đánh chặn những chiếc máy bay Nhật Bản đang tiến đến gần, và đã chạm trán với nhau ở khoảng cách 24 đến 32 &nbsp;km (15 - 20 dặm). Những chiếc Wildcat đã tấn công một cách quyết liệt, phá vỡ một cuộc tấn công xem ra được tổ chức khá chặt chẻ với khoảng 18 chiếc [[máy bay ném bom bổ nhào]] "Val" và 18 chiếc [[máy bay tiêm kích]] "Zero". "Máy bay bay tán loạn ở khắp mọi hướng", thuyền trưởng Buckmaster sau này ghi lại "và nhiều chiếc bị bốc cháy". Người chỉ huy của tốp "Val", Trung úy Joichi Tomonaga, có thể đã bị bắn rơi bởi chỉ huy phi đội VF-3, Đại úy John S. Thach.[http://www.history.navy.mil/photos/ac-usn22/f-types/f4f.htm].
Cho dù đã có một hàng phòng thủ ngăn chặn mạnh mẽ và sự cơ động lẫn tránh, vẫn có ba chiếc "Val" ném bom trúng đích. Hai chiếc trong số đó bị bắn rơi không lâu sau khi cắt bom; còn chiếc thứ ba bị mất điều khiển ngay sau khi quả bom rời khỏi đế. Nó bay loạng choạng và đâm trúng ngay phía sau thang nâng số hai, nổ tung khi chạm tạo ra một lổ hổng khoảng ba mét vuông trên sàn đáp. Các mảnh bom nổ tung đã giết hại hai khẩu đội pháo 1,1 inch phía sau đảo cấu trúc thượng tầng và trên sàn đáp bên dưới. Các mảnh bom xuyên thủng sàn đáp trúng phải ba chiếc máy bay đang đậu trong sàn chứa, gây ra các đám cháy. Một trong những chiếc máy bay này, một chiếc Dauntless, đã nạp đầy xăng và mang một quả bom 450 &nbsp;kg (1.000 &nbsp;lb). Các phản ứng tức thời của Trung úy A. C. Emerson, sĩ quan chỉ huy sàn chứa, đã ngăn chặn được một đám cháy nghiêm trọng có thể xảy ra bằng cách kích hoạt hệ thống vòi phun chữa cháy và nhanh chóng dập tắt đám cháy.
Quả bom thứ hai ném trúng chiếc tàu từ mạn trái, xuyên thủng sàn đáp, và nổ tung ở phần bên dưới các [[ống khói (tàu)|ống khói]]. Nó phá vỡ ống lấy hơi của ba nồi hơi, làm ngưng hoạt động hai nồi hơi, và làm dập lửa năm nồi hơi. Khói và hơi gas bắt đầu tràn ngập các lò đốt của sáu nồi hơi. Tuy nhiên, thủy thủ đoàn của nồi hơi số một vẫn tiếp tục ở lại vị trí của họ bất chấp sự nguy hiểm và sự khó chịu để tiếp tục đốt lò, giữ cho có đủ áp lực hơi nước để vận hành hệ thống hơi nước phụ trợ.
Hàng 195 ⟶ 194:
Trong khi con tàu đang phục hồi các hư hỏng gây ra bởi đợt tấn công của máy bay ném bom bổ nhào, vận tốc của nó giảm còn sáu knot; và đến 14 giờ 40 phút, khoảng 20 phút sau khi quả bom ném trúng làm tắt hầu hết các nồi hơi, ''Yorktown'' đứng chết một chỗ trên mặt nước.
Khoảng 15 giờ 40 phút, ''Yorktown'' chuẩn bị để tiếp tục di chuyển; và đến 15 giờ 50 phút, phòng máy báo cáo rằng họ sẵn sàng để có thể đạt được tốc độ 36 &nbsp;km/h (20 knot) hoặc nhanh hơn. Chiếc tàu chưa hẵn đã bị loại khỏi vòng chiến.
Đồng thời lúc đó, việc chữa cháy đã có hiệu quả đủ đảm bảo cho việc tiếp nhiên liệu trở nên an toàn, ''Yorktown'' bắt đầu tiếp nhiên liệu cho những chiếc máy bay tiêm kích đang trên sàn đáp; thì màn hình radar của con tàu lại bắt được tín hiệu của một tốp máy bay đang tiến đến gần ở khoảng cách 53 &nbsp;km (33 dặm). Trong khi con tàu lại chuẩn bị chiến đấu, tháo rỗng các hệ thống xăng và ngừng việc tiếp nhiên liệu cho những chiếc máy bay trên sàn đáp, nó phóng đi bốn trong số sáu chiếc máy bay tiêm kích tuần tra trên không (CAP) để đánh chặn các kẻ tấn công. Trong số mười chiếc máy bay tiêm kích trên tàu, tám chiếc chỉ có được khoảng 23 gallon nhiên liệu trong thùng chứa. Chúng được tung ra trong khi cặp máy bay tiêm kích CAP còn lại hướng ra đánh chặn những chiếc máy bay Nhật.
[[Tập tin:USS Yorktown hit-740px.jpg|nhỏ|phải|''Yorktown'' bị đánh trúng mạn trái phần giữa tàu bởi một quả ngư lôi Kiểu 91 ném bởi máy bay từ tàu sân bay [[Hiryū (tàu sân bay Nhật)|''Hiryū'']].]]
Lúc 16 giờ, ''Yorktown'' di chuyển với tốc độ 36 &nbsp;km/h (20 knot), trong lúc những chiếc máy bay tiêm kích được tung ra để đánh chặn đã bắt đầu tiếp xúc với đối phương. ''Yorktown'' nhận được báo cáo những kẻ tấn công lần này là những chiếc máy bay ném ngư lôi "Kate". Những chiếc Wildcat đã bắn hạ được ít nhất ba chiếc, nhưng số còn lại tiếp tục tiến đến gần trong khi con tàu sân bay và các tàu hộ tống dựng lên một màn hỏa lực phòng không dày đặc.
''Yorktown'' cơ động để lẫn tránh, né được ít nhất hai quả ngư lôi cho đến khi hai quả khác đâm trúng mạn trái tàu cách nhau ít phút, quả đầu tiên vào lúc 16 giờ 20. Chiếc tàu sân bay giờ đây bị tổn thương chí mạng; nó bị mất điện và đứng chết trên biển, bánh lái bị kẹt và nghiêng dần sang mạn trái.
Hàng 219 ⟶ 218:
Nhóm sửa chữa chiếc ''Yorktown'' lên tàu với một kế hoạch được sắp đặt cẩn thận trước tiến hành bởi người của các bộ phận – kiểm soát hư hỏng, kỹ thuật súng ống, hoa tiêu, liên lạc, tiếp liệu và y tế. Để giúp đỡ tiến hành công việc, Trung tá [[Arnold E. True]] đã đưa chiếc tàu khu trục [[USS Hammann (DD-412)|''Hammann'']] của ông chạy cặp bên mạn phải về phía sau, cung ứng bơm và năng lượng điện.
Đến giữa buổi chiều, xem ra canh bạc giải cứu con tàu đã có phần thắng. Công việc làm giảm bớt trọng lượng phần trên con tàu được tiến hành khả quan, một khẩu pháo 127 &nbsp;mm (5 inch) đã được thả xuống biển qua mạn tàu trong khi một khẩu thứ hai đang được tháo dỡ; máy bay được đẩy qua mạn tàu, các bơm nước hoạt động nhờ nguồn điện cung cấp bởi chiếc ''Hammann'' đã bơm ra được rất nhiều nước khỏi các khoang máy. Các nỗ lực của đội cứu hộ đã làm giảm bớt độ nghiêng của con tàu được khoảng hai độ.
[[Tập tin:USS Hammann sinking 1942-06-06 seen from USS Yorktown.jpg|nhỏ|trái|Tàu khu trục USS [[USS Hammann (DD-412)|''Hammann'']] đang chìm với đuôi tàu nhô cao, sau khi trúng phải ngư lôi của tàu ngầm Nhật [[I-168 (tàu ngầm Nhật)|I-168]].]]
Hoàn toàn không bị ''Yorktown'' và sáu chiếc tàu khu trục gần đó nhận biết, tàu ngầm Nhật Bản [[I-168 (tàu ngầm Nhật)|I-168]] tiến đến một vị trí khai hỏa thuận lợi. Một điều đáng lưu ý là không có tàu khu trục nào nhìn thấy chiếc tàu ngầm đang đến gần, nhưng điều này có lẽ hiểu được do mặt nước biển chung quanh đầy dẫy mảnh vỡ và xác máy bay. Đến 15 giờ 36 phút, một trinh sát viên phát hiện được một loạt bốn quả ngư lôi đang hướng đến con tàu từ mạn phải.
 
''Hammann'' tiến ra phía giữa, một khẩu đội súng máy 20 &nbsp;mm lập tức khai hỏa để tìm cách bắn nổ quả ngư lôi trên mặt nước. Một quả ngư lôi đánh trúng chiếc ''Hammann'' – chân vịt của nó đánh nước tung tóe dưới đuôi khi nó cố gắng né tránh. Chiếc tàu khu trục bị gẩy làm đôi và nhanh chóng chìm xuống nước.
Hai quả ngư lôi đánh trúng chiếc ''Yorktown'' ngay bên dưới chỗ uốn của đáy tàu phía sau đảo cấu trúc thượng tầng. Quả ngư lôi thứ tư trượt qua ngay phía sau đuôi tàu.
Hàng 238 ⟶ 237:
Chiếc ''Yorktown'' (CV-5) đã nhận được ba [[ngôi sao chiến đấu]] do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, hai trong số đó là do phần tham gia đáng kể của nó trong việc ngăn chặn sự bành trướng của lực lượng Nhật Bản và làm đảo chiều diễn biến chiến tranh trong trận chiến biển Coral và tại Midway.
 
Vào ngày [[19 tháng 5]] năm [[1998]], xác tàu đắm của chiếc ''Yorktown'' được tìm thấy và được chụp ảnh bởi nhà đại dương học nổi tiếng là Tiến sĩ [[Robert Ballard|Robert D. Ballard]], người cũng đã tìm ra xác tàu đắm của chiếc [[RMS Titanic]]. Điều ngạc nhiên là xác tàu chìm sâu 4,8 &nbsp;km (3 dặm) bên dưới mặt nước lại gần như nguyên vẹn sau khi đã ở lại dưới đáy biển từ năm [[1942]]; hầu hết nước sơn và các trang bị vẫn còn nhìn thấy được.<ref>{{citechú thích newsbáo|url=http://www.cnn.com/TECH/science/9806/04/yorktown.found/index.html|title=Titanic explorer finds Yorktown|ngày=[[4 tháng 6 năm 1998]]|truy cập ngày=1 tháng 7 năm 2007|publisher=CNN}}</ref>
 
== Tham khảo ==
{{reflist}}
* Bài này có các trích dẫn từ nguồn [[:en:Dictionary_of_American_Naval_Fighting_ShipsDictionary of American Naval Fighting Ships]] thuộc [[phạm vi công cộng]].
* Bài này có các thông tin thu thập từ [[:en:Naval_Historical_CenterNaval Historical Center]], vốn là tác phẩm xuất bản của Chính phủ Mỹ, nên thuộc [[phạm vi công cộng]].
* {{citechú bookthích sách | last = Cressman | first = Robert | origyear = 1985 | year = 2000 | edition = 4th printing | title = That Gallant Ship: U.S.S. Yorktown (CV-5) | publisher = Pictorial Histories Publishing Company | location = Missoula, Montana | isbn = 0933126573 | oclc = 14251897 }}
 
== Xem thêm ==
Hàng 258 ⟶ 257:
* [http://www.hullnumber.com/CV-5 Danh sách thành viên chiếc CV-5 tại HullNumber.com]
 
{{Lớp tàu sân bay Yorktown}}
 
 
{{Lớp tàu sân bay Yorktown}}
{{DEFAULTSORT:Yorktown (CV-5)}}
{{các chủ đề|Quân sự|Hàng hải|Mỹ}}
{{Commonscat|USS Yorktown (CV-5)}}
 
{{DEFAULTSORT:Yorktown (CV-5)}}
[[Thể loại:Tàu sân bay của Hải quân Hoa Kỳ]]
[[Thể loại:Tàu sân bay trong Thế Chiến II]]