Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyên Chẩn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up
Dòng 2:
 
==Tiểu sử==
'''Nguyên Chẩn''' là người [[Lạc Dương]], tỉnh [[Hà Nam (Trung Quốc)]]. Cha mất sớm, nhà nghèo nhưng nhờ thông minh và chăm chỉ học tập, năm 9 tuổi đã biết viết văn <ref> Theo [[Nguyễn Hiến Lê]], tr. 419.</ref>, đến 15 tuổi, ông thi đỗ khoa Minh kinh, được bổ chức Hiệu thư lang. Sau đó, ông đỗ chế khoa, được giữ chức Hữu thập di.
 
Làm quan tại triều, ông thường đấu tranh với các thế lực đang làm lũng đoạn triều chính, trong đó có phe hoạn quan. Nhưng cuối cùng, việc làm này thất bại, ông bị giáng chức làm Sĩ tào tham quân ở Giang Lăng, rồi làm Tư mã ở Thông Châu.
Dòng 8:
Sau, nhờ có các hoạn quan như Thôi Đàm Tuấn, Thôi Hoàng Giản...giúp đỡ, ông thỏa hiệp được với các thế lực trên, không kiên trì đấu tranh được như bạn thân ông là [[Bạch Cư Dị]].
 
Năm [[822]] đời [[Đường Mục Tông]] (ở ngôi: [[820]]-[[824]]), sau khi nắm giữ một vài chức vụ tại triều, Nguyên Chẩn được cử lên làm [[Tể tướng]]<ref> Chép theo ''Lịch sử văn học Trung Quốc (Tập II, tr. 228). Trần Trọng San (tr. 146) cho biết Nguyên Chẩn làm Thượng thư Tả thừa, và Bùi Độ làm Thượng thư Hữu thừa.</ref> cùng với Bùi Độ. Vì ghen công với Bùi Độ, ông cùng Thôi Hoàng Giản mưu phá. Bùi Độ biết được tâu việc lên vua, ông bị đưa đi làm Thứ sử ở Đồng Châu, rồi làm Thứ sử ở Việt Châu kiêm quan sát sứ ở Chiết Đông <ref>Theo ''Lịch sử văn học Trung Quốc'' (Tập II, tr. 228).</ref>.
 
Đến đời [[Đường Văn Tông]] (ở ngôi: [[826]]-[[840]]), ông được đổi làm Tiết độ sứ ở [[Vũ Xương]] (nay là thủ phủ tỉnh [[Hồ Bắc]]).
Dòng 16:
==Tác phẩm==
Tác phẩm Nguyên Chẩn để lại có:
*'''Nguyên thị Trường Khánh tập''' (''Tập thơ của Trường Khánh họ Nguyên''), gồm 60 quyển.
 
*'''Hội chân ký''' (''Ghi chuyện gặp gỡ chân tình''). Đây là truyện ngắn tả mối tình giữa Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thụy, đặt nền mống cho sự ra đời vở tạp kịch [[Tây sương ký]] (''Truyện ký mái Tây'') <ref> Tây sương ký do nhà viết kịch đời [[Nhà Nguyên|Nguyên]] là [[Vương Thực Phủ]] sáng tác. Sau, danh sĩ đời [[Nhà Nguyễn|Nguyễn]] ([[Việt Nam]]) là [[Lý Văn Phức]] (hoặc [[Nguyễn Lê Quang]]) lại chuyển thể từ kịch bản này làm thành truyện [[chữ Nôm|Nôm]] là [[Tây sương]] (''Mái Tây'').</ref> nổi tiếng.
 
Ngoài ra, những lời bàn luận về thế sự của ông và [[Bạch Cư Dị]], còn được tập hợp trong 75 thiên '''Sách lâm''' (''Rừng sách'').
 
==Sự nghiệp văn chương==
Nguyên Chẩn và [[Bạch Cư Dị]] là đôi bạn thân thiết: là bạn [[thơ]] và là bạn đồng triều, rồi vì cùng đấu tranh chính trị trong nội bộ mà cùng bị biếm. Đối với thi đàn lúc bấy giờ, hai ông đã tích cực đề xướng phong trào Tân [[nhạc phủ]]. Bài tựa "Nhạc phủ đề cổ" của Nguyên Chẩn, và "Ký Nguyên Chẩn thư" (''Thư gửi Nguyên Chẩn'') của [[Bạch Cư Dị]] có thể xem là những tuyên ngôn của khuynh hướng sáng tác hiện thực trong thơ ca [[Trung Quốc]] vào đầu [[thế kỷ 9]]<ref name="TDVH">< /ref>.
 
Riêng về Nguyên Chẩn, rất nhiều tác phẩm của ông đã được phổ nhạc và lưu truyền trong cung cấm, nên lúc bấy giờ ông còn được là '''Nguyên tài tử''' <ref>Theo ''Lịch sử văn học Trung Quốc'' (Tập II), tr. 228.</ref>. Đề tài mà ông thường viết là tình yêu, là sự tiếc thương cho người đã khuất. Đây là sở trường của ông, do ông giàu từ ngữ và tinh tế khi tả <ref> Theo ''Lịch sử văn học Trung Quốc'' (Tập II), tr. 232.</ref>, nổi bật có bài "Xuân hiểu" (''Sáng xuân''), "Khiển bi hoài" (''Giải nỗi sầu nhớ'', gồm 3 bài)<ref>Vợ Nguyên Chẩn là Vi Tùng, con nhà quan, mất khi ông mới 30 tuổi, gia cảnh còn nghèo. Thương nhớ vợ, ông làm bài thơ này.</ref>,...
Song bộ phận có giá trị nhất của Nguyên Chẩn lại là thơ phúng dụ. Thơ phúng dụ phần lớn viết theo thể [[cổ phong]] và [[nhạc phủ]], cũng dùng những đề tài giống như [[Bạch Cư Dị]], để nói lên tâm tình bất mãn của tác giả đối với tình hình chính trị (trong đó có việc ông phê phán chủ trương gây chiến), đồng thời ít nhiều phản ánh cuộc cuộc sống của người dân đương thời. Đáng chú ý các bài: "Thái châu hành" (''Bài hành lặn xuống lấy hạt châu''), "Tróc bổ hành" (''Bài ca lùng bắt''), "Chức phụ từ" (''Bài ca gái dệt''), "Điền gia từ" (''Lời người làm ruộng''), "Viễn chinh phu" (''Chồng đi viễn chinh''), v.v...
Dòng 35:
Đến đời [[Nhà Thanh|Thanh]], danh sĩ [[Triệu Dực]] lại viết:
:''" Nguyên Chẩn và [[Bạch Cư Dị]] thích bình thường, giản dị...(làm thơ) phần nhiều gặp cảnh sinh tình, nhân việc nảy ý, cảnh trước mắt, lời nói cửa miệng, tự nhiên có thể đi sâu vào lòng người, ai cũng nghiền ngẫm, ngâm nga"'' <ref> Chép lại theo ''Lịch sử văn học Trung Quốc'' (Tập II), tr. 234.</ref>.
 
==Giới thiệu thơ==
Dòng 90:
:Bần tiện phu thê bách sự ai!
:Dịch nghĩa:
:'''''Giải nỗi sầu nhớ''''' (bài 2)
:''Ngày trước cứ nói đùa những chuyện về sau,
:''Bây giờ đều đến ngay trước mắt.
Dòng 101:
:''(Chỉ xót xa) vợ chồng nghèo nên trăm chuyện buồn thương.
 
:'''Hành cung'''
:Phiên âm:
:Liêu lạc cố hành cung
:Cung hoa tịch mịch hồng
:Bạc đầu cung nữ tại
:Nhàn tọa thuyết Huyền Tông.
 
:[[Ngô Tất Tố]] dịch thơ:
:''Quạnh hiu thương cảnh hành cung,
:''Trước cung, hoa thắm mấy bông rầu rầu.
:''Trong cung bà chúa bạc đầu,
:''Ngồi rồi, kể chuyện khi hầu [[Đường Huyền Tông|Huyền Tông]].
|}
 
Dòng 127:
 
{{Thời gian sống|sinh=779|mất=831}}
 
[[Thể loại:Người Hà Nam (Trung Quốc)]]
[[Thể loại:Nhà thơ Trung Quốc]]
 
[[Thể loại: Quan nhà Đường]]
{{Liên kết bài chất lượng tốt|zh-classical}}
 
[[Thể loại:Người Hà Nam (Trung Quốc)]]
[[Thể loại:Nhà thơ Trung Quốc]]
[[Thể loại: Quan nhà Đường]]
 
[[de:Yuan Zhen]]