Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Kỷ Đệ Tứ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n r2.7.3) (Bot: Đổi eu:Laugarren aro thành eu:Kuaternario
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n clean up, replaced: {{reflist}} → {{Tham khảo}}
Dòng 5:
| style="background:#efefef"|
[[Thế Pliocen|Pliocen*]]<br /><small>(Từ 2009 thuộc [[thế Pleistocen]])</small><br />
:[[Tầng Gelasia]]<br />
|-
|[[Thế Pleistocen|Pleistocen]]<br />
:[[Thời đại đồ đá cũ|Đồ đá cũ]]<br />
::[[Thời đại Tiền đồ đá cũ|Tiền đồ đá cũ]]<br />
::[[Thời đại Trung đồ đá cũ|Trung đồ đá cũ]]<br />
::[[Thời đại Hậu đồ đá cũ|Hậu đồ đá cũ]]<br />
|-
| style="background:#efefef;" |
[[Thế Holocen|Holocen]]<br />
:[[Thời đại đồ đá giữa|Đồ đá giữa]]<br />
:[[Thời đại đồ đá mới|Đồ đá mới]]
|}
'''kỷ Đệ tứ''', trước đây gọi là '''Phân đại Đệ tứ''', là một giai đoạn trong [[niên đại địa chất]] theo [[Ủy ban Địa tầng quốc tế]]<ref name="ICS2009"/>. Theo truyền thống, nó bắt đầu sau khi kết thúc [[thế Pliocen]] vào khoảng 1,806 triệu năm trước. Tuy nhiên, trong phiên bản 2009 về niên đại địa chất thì ICS đã chấp nhận điều chỉnh lại ranh giới bắt đầu của phân đại/kỷ này. Hiện tại (vào năm 2009), nó bắt đầu vào khoảng 2,588±0,005 triệu năm trước, khi bắt đầu [[tầng Gelasia]]<ref name="ICS2009">Xem phiên bản 2009 của thang niên đại địa chất của ICS [http://www.quaternary.stratigraphy.org.uk/correlation/GSAchron09.jpg tại đây]</ref>. Phân đại (kỷ) này bao gồm 2 thế -- làthế—là [[thế Pleistocen]] và [[thế Holocen]].
 
Trong sửa đổi gần đây của phân loại quốc tế do [[Ủy ban Địa tầng quốc tế]] (ICS)<ref>http://www.idm.gov.vn/nguon_luc/Xuat_ban/2005/A289/a68.htm</ref> thực hiện về các thời kỳ địa chất thì kỷ Đệ tứ đã được gộp vào trong [[kỷ Neogen]]. Sự chuyển dịch này đã vấp phải sự phản đối từ một số [[nhà địa chất]]. ICS đã đề nghị rằng kỷ Đệ tứ nên được coi là một phân đại gọi là phân đại đệ Tứ và nó là một phần của [[kỷ Neogen]], với sự bắt đầu của nó vào khoảng 2,588 Ma, trùng với khi bắt đầu [[tầng Gelasia]]. Tuy nhiên, [[Hiệp hội quốc tế về nghiên cứu kỷ đệ Tứ]] (INQUA) lại đưa ra đề nghị ngược lại cho rằng kỷ Neogen và [[thế Pliocen]] kết thúc tại thời điểm khoảng 2,588 Ma, tầng Gelasia cần được chuyển sang [[thế Pleistocen]] và kỷ đệ Tứ cần được công nhận là kỷ thứ ba của đại Tân Sinh bằng việc viện dẫn các thay đổi cơ bản trong khí hậu, đại dương và vùng sinh vật của Trái Đất đã diễn ra vào thời điểm 2,588 Ma và sự tương ứng của nó với [[đảo ngược Gauss-Matuyama|ranh giới địa từ học Gauss-Matuyama]]<ref name="INQUA-16-1">[http://www.inqua.tcd.ie/documents/QP%2016-1.pdf Clague, John và ''ctv'' (2006) "Open Letter by INQUA Executive Committee" ''Quaternary Perspective, the INQUA Newsletter'' Hiệp hội quốc tế về nghiên cứu kỷ đệ Tứ, 16(1):]</ref>.
Dòng 25:
Thuật ngữ Đệ tứ ("Quaternary") do [[Jules Desnoyers]] đề nghị năm 1829 để chỉ các trầm tích tại lòng chảo sông [[Seine]] thuộc [[Pháp]] mà chúng dường như là trẻ hơn một cách rõ ràng so với các loại [[đá (địa chất)|đá]] thuộc [[phân đại đệ Tam|kỷ đệ Tam]] ("Tertiary"). Kỷ Đệ tứ nối tiếp sau kỷ đệ Tam và kéo dài tới ngày nay. Kỷ Đệ tứ gần như trùng khít với khoảng thời gian của các [[sông băng|băng hà]] gần đây, bao gồm lần [[rút lui sông băng thế Holocen|rút lui sông băng]] cuối cùng. Sử dụng kiểu khác của thuật ngữ này đôi khi đặt sự bắt đầu của kỷ này vào thời điểm tấn công của sự đóng băng [[Bắc cực]] vào khoảng 3 triệu năm trước và như thế nó bao gồm cả một phần khoảng thời gian của thời kỳ Thượng Pliocen. Một số người không công nhận thuật ngữ kỷ Đệ tứ và cho rằng nó là thuật ngữ không chính thức để chỉ [[kỷ Neogen]], như có thể thấy từ ấn bản năm [[2003]] của biểu đồ địa tầng quốc tế, do ICS ấn hành.
 
Thời gian 1,8-1,6 triệu năm của kỷ Đệ tứ đại diện cho thời kỳ mà các dạng sinh vật có thể công nhận được là giống như [[loài người|người]] đã tồn tại. Trong khoảng thời gian ngắn này, tổng khoảng cách của các sự kiện [[trôi dạt lục địa]] nhỏ hơn 100 &nbsp;km và nó không thích đáng đối với cổ sinh vật học. Tuy nhiên, các hồ sơ địa chất được bảo tồn là lớn hơn rất nhiều so với các thời kỳ trước đó và có quan hệ gần gũi nhất với các bản đồ ngày nay, đang bộc lộ trong nửa sau [[thế kỷ 20]] các hệ thống của chính nó về các thay đổi địa mạo khác thường. Các thay đổi địa lý chính trong thời kỳ này bao gồm sự nổi lên của eo biển [[Bosphorus]] và [[Skagerrak]] trong các thời kỳ băng hà, điều đó đã tương ứng biến các biển như [[Hắc Hải]] và [[biển Baltic]] trở nên nhạt hơn, tiếp ngay sau sự ngập lụt của chúng do mực nước biển dâng cao; hay sự lấp đầy có chu kỳ của eo biển [[La Manche]], tạo thành một cầu đất nối liền quần đảo Anh với [[châu Âu]] lục địa; sự đóng lại theo chu kỳ của [[eo biển Bering]], tạo ra cầu đất nối liền [[châu Á]] và [[Bắc Mỹ]]; cũng như sự ngập lụt chớp nhoáng theo chu kỳ của khu vực [[Scablands]] thuộc tây bắc [[Hoa Kỳ]] bởi các sông băng. Đại Hồ và các hồ lớn khác của [[Canada]] và vịnh Hudson cũng chỉ là các kết quả của chu kỳ gần đây và nó là nhất thời. Tiếp theo sau mỗi [[thời kỳ băng hà]] của kỷ Đệ tứ lại là một kiểu khác biệt của hồ và vịnh.
 
[[Khí hậu]] đã là một trong những yếu tố chịu ảnh hưởng của sự đóng băng theo chu kỳ với các sông băng trên các đại lục di chuyển đi xa từ địa cực xuống tới [[vĩ độ]] khoảng 40. Chỉ có một số ít các [[động vật]] chính yếu và mới đã tiến hóa, một lần nữa có lẽ là do thời kỳ ngắn (theo thuật ngữ địa chất) của kỷ này. Trong kỷ này cũng diễn ra sự tuyệt chủng chính của các động vật có vú lớn tại các khu vực phương Bắc vào cuối thế Pleistocen.
Dòng 39:
 
== Tham khảo ==
{{reflistTham khảo}}
 
== Liên kết ngoài ==