Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Ivan Stepanovich Konev”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n cosmetic change, replaced: [[File: → [[Tập tin: (6) using AWB
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 7:
|allegiance={{Cờ|Nga}} [[Đế quốc Nga]]<br>{{Cờ|Liên Xô}} [[Liên Xô]]
|serviceyears=1916-1960
|rank=[[Nguyên soái Liên bang Xô viết|Nguyên soái Liên Xô]]
|commands=Tư lệnh tối cao lực lượng vũ trang các nước thuộc [[Khối Warszawa]]
|battles=[[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Thế chiến thứ nhất]]<br>[[Nội chiến Nga|Nội chiến Nga (1918)]],<br>[[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến thứ hai]]
|awards=[[Tập tin:Order of Lenin ribbon bar.png|22px]] [[Huân chương Lenin]]<br>[[Tập tin:Order of Red Banner ribbon bar.png|22px]] [[Huân chương Lá cờ Đỏ]]<br>[[Tập tin:Order kutuzov1 rib.png|22px]] [[Huân chương Kutuzov]]<br>[[Tập tin:Order suvorov1 rib.png|22px]] [[Huân chương Suvorov]]<br>[[Tập tin:Ordervictory rib.png|22px]] [[Huân chương Chiến thắng]]<br>[[Tập tin:Legion of Merit ribbon.svg|22px]] Legion of Merit
}}
'''Ivan Stepanovich Koniev''' ([[tiếng Nga]]: ''Иван Степанович Конев''; đọc là '''Ivan Xtêphanôvích Cônhép'''; [[28 tháng 12]] năm [[1897]] - [[21 tháng 5]] năm [[1973]]) là một chỉ huy cao cấp của [[Hồng Quân|Hồng quân]] Liên Xô trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai|Thế chiến thứ hai]], là [[Nguyên soái Liên bang Xô viết|Nguyên soái Liên Xô]] từ năm [[1944]]. Sau chiến tranh, Koniev là Tư lệnh tối cao lực lượng vũ trang các nước thuộc [[Khối Warszawa]].
 
==Tiểu sử==
Koniev sinh ra trong một gia đình nông dân ở gần Podosinovsky miền Trung [[Đế quốc Nga]] (nay thuộc tỉnh [[Kirov (tỉnh)|Kirov]]). Ông ít được học hành và sớm phải đi làm thợ rừng trước khi nhập ngũ trong quân đội Nga năm [[1916]]. Khi [[Cách mạng Tháng Mười|Cách mạng tháng Mười]] nổ ra cuối năm [[1917]], Koniev được phục viên và trở về nhà, nhưng chỉ sau 2 năm, năm [[1919]] ông gia nhập [[Hồng Quân|Hồng quân]] và [[Bolshevik|Đảng Bolshevik]] để phục vụ trong pháo binh.
 
==Sự nghiệp==
===Trước thế chiến===
Trong [[Nội chiến Nga|Nội chiến Nga (1918)]], Koniev chiến đấu dưới sự chỉ huy của [[Kliment Yefremovich Voroshilov]]. Năm [[1926]] Koniev hoàn thành chương trình huấn luyện nâng cao cho các chỉ huy tại [[Học viện Quân sự Frunze]] và từ đó đến năm [[1931]] liên tục được thăng cấp đến Tư lệnh các quân khu [[Zabaikal]] và Bắc [[Kavkaz|Caucasus]]. Từ năm [[1937]] Koniev là ủy viên [[Xô viết Tối cao]] và năm [[1939]] là ủy viên [[Trung ương Đảng Bolshevik]].
 
===Thế chiến thứ hai===
Khi quân đội [[Đức Quốc Xã|Đức Quốc xã]] tấn công Liên Xô tháng 6 năm [[1941]], Koniev đang chỉ huy Tập đoàn quân 19 của Hồng quân tại vùng [[Vitebsk]], ông đã lãnh đạo lực lượng của mình tiến hành nhiều trận đánh phòng ngự trong cuộc rút lui của Hồng quân, đầu tiên là về [[Smolensk]] và sau đó là về [[Moskva]]. Từ tháng 10 năm 1941 đến tháng 8 năm [[1942]] Koniev chuyển sang chỉ huy Phương diện quân Kalinin, phương diện quân đóng vai trò quan trọng trong các trận chiến ở ngoại vi Moskva và cuộc phản công mùa Đông 1941-1942 của Hồng quân dẫn đến thắng lợi của Hồng quân trong [[Trận Moskva (1941)|Trận Moskva, 1941]]. Nhờ những thành tích này, Koniev được phong hàm thượng tướng.
 
Từ tháng 2 đến tháng 7 năm [[1943]], Koniev là Tư lệnh Phương diện quân Tây, sau đó là Phương diện quân Ukraina 1 từ tháng 7 năm 1943 đến tháng 5 năm [[1945]]. Phương diện quân Ukraina 1 do Koniev chỉ huy trong trận [[Trận Vòng cung Kursk|Trận Kursk]] là lực lượng chủ chốt ở phần phía Nam cuộc phản công của Hồng quân, dẫn đến việc bao vây lực lượng của Thống chế [[Erich von Manstein]].
 
Sau chiến thắng ở Kursk, Koniev đã chỉ huy phương diện quân của mình giải phóng [[Belgorod]], [[Odessa]], [[Kharkiv|Kharkov]] và [[Kiev]] từ tay người Đức và tiến đến biên giới [[Romania]]. Từ tháng 2 năm [[1944]], Koniev được thăng cấp [[Nguyên soái Liên bang Xô viết]].
 
Trong năm 1944, phương diện quân của Koniev đã vượt qua [[Ukraina]] và [[Belarus]] tiến vào [[Ba Lan]] và [[Tiệp Khắc]]. Từ tháng 7, lực lượng này vượt được qua [[wisla|sông Vistula]] ở miền Trung Ba Lan, Koniev được phong [[Anh hùng Liên bang Xô viết]]. Từ tháng 9, với cái tên mới Phương diện quân Ukraina 4, Koniev đã chỉ huy phương diện quân tiến vào [[Slovakia]] và giúp những du kích Slovakia chống lại sự chiếm đóng của quân đội Đức Quốc xã.
 
Tháng 1 năm [[1945]] Koniev và [[Georgi Konstantinovich Zhukov]] chỉ huy Hồng quân mở [[Chiến dịch Wisla-Oder|Chiến dịch Vistula-Oder]], đẩy quân Đức từ Vistula về phía [[oder|sông Oder]]. Ở miền Nam Ba Lan, lực lượng của Koniev giải phóng [[Kraków]]. Từ tháng 4, phương diện quân của Koniev cùng Phương diện quân Belarus 1 do Zhukov chỉ huy đã phá vỡ phòng tuyến sông Oder và tiến về [[Berlin]]. Tuy Koniev cũng tiến vào Berlin nhưng nhiệm vụ chiếm Tòa nhà Quốc hội Đức ([[Reichstag]]) và cắm cờ được giao cho Zhukov, còn Koniev và lực lượng của ông được lệnh tiến về phía Tây Nam và hội quân cùng lực lượng Mỹ tại [[Torgau]], phương diện quân này cũng là lực lượng giải phóng [[Praha]] không lâu sau sự đầu hàng chính thức của quân Đức.
 
===Sau chiến tranh===
[[Tập tin:First ukrainian front.jpg|nhỏ|phải|200px|I. S. Koniev dẫn đầu đoàn quân của Phương diện quân Ukraina 1 diễu binh mừng chiến thắng trên [[Quảng trường Đỏ]], ''Moskva, ngày 24-6-1945]]
 
Sau chiến tranh Koniev được giao nhiệm vụ Tư lệnh Hồng quân tại [[Cộng hòa Dân chủ Đức|Đông Đức]] và giữ chức Cao ủy phe Đồng minh tại [[Áo]]. Năm [[1946]] ông trở thành Tư lệnh lục quân và Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng thay cho Zhukov. Ông giữ vị trí này cho đến năm [[1950]] thì được cử làm Tư lệnh Quân khu Carpath.
 
Sau cái chết của Stalin, Koniev trở thành đồng minh thân cận của [[Nikita Sergeyevich Khrushchyov]] và được giao nhiệm vụ bắt [[Lavrentiy Pavlovich Beriya|Lavrentiy Pavlovich Beria]] năm [[1953]]. Sau đó, ông trở lại vị trí Thứ trưởng thứ nhất Bộ Quốc phòng và Tư lệnh lục quân cho đến năm [[1956]] khi ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh tối cao lực lượng vũ trang các nước thuộc [[Khối Warszawa]]. Ông giữ vị trí này đến khi nghỉ hưu năm [[1960]], tuy vậy Koniev còn tiếp tục làm Tư lệnh các lực lượng vũ trang Xô viết tại Đông Đức cho đến năm [[1962]] và Tổng thanh tra Bộ Quốc phòng Liên Xô.
 
Ivan Koniev mất ngày [[21 tháng 5]] năm [[1973]] tại Moskva.