Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Khí thiên nhiên”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 1:
'''Khí thiên nhiên''', hỗn hợp chất khí cháy được, bao gồm phần lớn là các [[hiđrôcacbon|hydrocarbon]] ([[hợp chất|hợp chất hóa học]] chứa [[cacbon]] và [[hiđrô|hyđrô]]). Cùng với [[than đá]], [[dầu mỏ]] và các khí khác, khí thiên nhiên là [[nhiên liệu hóa thạch]]. Khí thiên nhiên có thể chứa đến 85% [[mêtan]] (CH<sub>4</sub>) và khoảng 10% [[êtan]] (C<sub>2</sub>H<sub>6</sub>), và cũng có chứa số lượng nhỏ hơn [[prôpan|propan]] (C<sub>3</sub>H<sub>8</sub>), [[butan]] (C<sub>4</sub>H<sub>10</sub>), [[pentan]] (C<sub>5</sub>H<sub>12</sub>), và các [[ankan|alkan]] khác. Khí thiên nhiên, thường tìm thấy cùng với các mỏ dầu ở trong vỏ [[Trái Đất]], được khai thác và tinh lọc thành nhiên liệu cung cấp cho khoảng 25% nguồn cung năng lượng thế giới.
 
Khí thiên nhiên chứa lượng nhỏ các tạp chất, bao gồm [[cacbon điôxít|điôxít cacbon]] (CO<sub>2</sub>), [[hyđrô sulfit]] (H<sub>2</sub>S), và [[nitơ]] (N<sub>2</sub>). Do các tạp chất này có thể làm giảm nhiệt trị và đặc tính của khí thiên nhiên, chúng thường được tách ra khỏi khí thiên nhiên trong quá trình tinh lọc khí và được sử dụng làm sản phẩm phụ.
 
== Sử dụng ==
Khí thiên nhiên được sử dụng làm [[nhiên liệu]] và nguyên liệu đầu vào cho ngành chế biến hóa chất. Là một nhiên liệu gia dụng, nó được đốt trong các bếp ga, lò ga để nấu nướng, sấy khô. Là một nhiên liệu công nghiệp, khí thiên nhiên được đốt trong các lò gạch, gốm và lò cao sản xuất xi măng. Khí thiên nhiên còn được sử dụng để đốt các lò đốt các tua-bin [[nhiệt điện]] để phát [[điện]] cũng như các lò nấu [[thủy tinh]], lò luyện [[kim loại]] và chế biến [[thực phẩm]].
 
Khí thiên nhiên được sử dụng làm [[nguyên vật liệu|nguyên liệu]] đầu vào cho ngành [[hóa dầu]] để tạo ra các chất hóa dầu. Các chất hóa dầu này được sử dụng làm sản phẩm cơ sở cho việc sản xuất [[phân đạm]], [[bột giặt]], [[dược phẩm]], [[chất dẻo]] và nhiều loại hàng hóa khác.
 
== Lịch sử ==
Con người đã sử dụng khí tự nhiên trong nhiều thế kỷ. Các ghi chép lịch sử đã cho thấy khí thiên nhiên đã được đốt ở [[Trung Quốc]] năm 250. Vào thế kỷ 17, khí thiên nhiên đã được sử dụng để sưởi ấm và chiếu sáng ở miền Bắc [[Ý]]. Ở [[Hoa Kỳ]], khí thiên nhiên lần đầu đã được phát hiện ở [[FredoniaNew York]], năm 1821.
 
Do khí thiên nhiên ở dạng khí khó vận chuyển bằng các phương tiện thông thường, trong lịch sử khí thiên nhiên đã được sử dụng ở các khu vực gần mỏ khí. Khi ngành công nghiệp [[dầu mỏ|dầu khí]] phát triển vào [[thế kỷ 19]] và [[thế kỷ 20]], khí thiên nhiên được phát hiện cùng dầu mỏ (khí đồng hành) từ các mỏ ngầm thường được xử lý như chất phụ phẩm phế thải và thường được đốt bỏ ngay trên [[giàn khoan]]. Ngày nay, khí thiên nhiên được vận chuyển thông qua các mạng lưới [[đường ống dẫn khí]] rộng lớn hoặc được hóa lỏng và chở bằng tàu bồn.
 
== Sự hình thành khí thiên nhiên ==
Khí thiên nhiên được tạo ra từ [[sinh vật phù du]], các [[vi sinh vật]] sống dưới nước bao gồm [[tảo]] và [[động vật nguyên sinh]]. Khi các vi sinh vật này chết đi và tích tụ trên đáy [[đại dương]], chúng dần bị chôn đi và xác của chúng được nén dưới các lớp [[trầm tích]]. Trải qua hàng triệu năm, [[áp suất]] và [[nhiệt năng|nhiệt]] do các lớp [[trầm tích]] chồng lên nhau tạo nên trên xác các loại sinh vật này đã chuyển hóa hóa học các [[hợp chất hữu cơ|chất hữu cơ]] này thành khí thiên nhiên.
 
Do [[dầu mỏ]] và khí thiên nhiên thường được tạo ra bằng các quá trình tự nhiên tương tự nhau, hai loại hydrocarbon này thường được tìm thấy cùng nhau ở trong các bể chứa ngầm tự nhiên. Sau khi dần được tạo nên trong lòng vỏ [[Trái Đất]], dầu mỏ và khí thiên nhiên đã dần chui vào các lỗ nhỏ của các tầng đá xốp xung quanh, những tầng đá xốp này có vai trò như các bể chứa tự nhiên. Do các lớp đá xốp này thường có [[nước]] chui vào, cả dầu mỏ và khí tự nhiên, vốn nhẹ hơn nước và kém dày đặc hơn các tầng đá xung quanh nên chúng chuyển lên trên qua lớp vỏ, đôi khi cách xa nơi chúng được tạo ra. Cuối cùng, một số hydrocacbon này bị bẫy lại bởi các lớp đá không thấm (đá không xốp), các lớp đã này được gọi là đá "mũ chụp". Khí thiên nhiên nhẹ hơn dầu mỏ, do đó nó tạo ra một lớn nằm trên dầu mỏ. Lớn khí này được gọi là "mũ chụp khí".
Dòng 27:
 
== Phân loại ==
Khí thiên nhiên là một loại khí không màu sắc và được phân loại tùy theo thành phần của nó. Khí khô có chứa tỷ lệ [[mêtan]] cao còn khí ướt có chứa đáng kể khối lượng hydrocacbon có phân tử lượng cao hơn thuộc nhóm [[ankan]], bao gồm [[êtan]], [[prôpan|propan]], và [[butan]]. Phần cặn lắng của khí là phần còn lại sau khi các ankan đã được rút khỏi khí ướt. [[Khí chua]] là khí chứa nồng độ [[hyđrô sulfít]] cao (đây là một chất khí không màu, [[độc]] có mùi trứng thối). Khí ngọt là khí có chứa ít chất hyđrô sulfít.
 
Các chất không phải là hyđrô cacbon trong khí thiên nhiên được là các chất làm loãng và chất gây ô nhiễm. Các chất làm loãng bao gồm các loại khí và hơi như: [[nitơ]], [[cacbon điôxít|điôxít cacbon]] và hơi nước. Các chất gây ô nhiễm bao gồm các hyđrô sulfít và các hợp chất [[lưu huỳnh]] khác. Các chất gây ô nhiễm có thể phá hoại các thiết bị sản xuất và vận chuyển. Nếu được đốt, các chất gây ô nhiễm có thể gây ra các vấn đề như [[ô nhiễm không khí]] và [[mưa axít]]. Mưa axít được tạo thành khi các hợp chất lưu huỳnh trong khí thiên nhiên và các loại [[nhiên liệu hóa thạch]] khác như than đá bị đốt và phản ứng với hơi ẩm trong không khí để tạo nên [[axít sulphuric]] (H<sub>2</sub>SO<sub>4</sub>). Hỗn hợp hơi ẩm [[axít]] này rơi xuống đất khi trời mưa gây hư hại cho mùa màng và [[rừng]], [[hồ]], [[suối]], [[sông]].
 
== Khai thác ==
Để định vị được các mỏ khí, các nhà địa chất học thăm dò những khu vực có chứa những thành phần cần thiết cho việc tạo ra khí thiên nhiên: đá nguồn giàu hữu cơ, các điều kiện chôn vùi đủ cao để tạo ra khí tự nhiên từ các chất hữu cơ, các kiến tạo đá có thể "bẫy" các [[hiđrôcacbon|hyđrôcacbon]].
 
Khi các kiến tạo địa chất có thể chứa khí tự nhiên được xác định, thông thường chứ không phải luôn ở bể trầm tích, người ta tiến hành khoan các giếng các kiến tạo đá. Nếu giếng khoan đi vào lớp đá xốp có chứa trữ lượng đáng kể khí thiên nhiên, áp lực bên trong lớp đá xốp có thể ép khí thiên nhiên lên bề mặt. Nhìn chung, áp lực khí thường giảm sút dần sau một thời gian khai thác và người ta phải dùng bơm hút khi lên bề mặt.
Dòng 41:
Khi khí thiên nhiên được khai thác khỏi mặt đất, nó được vận chuyển bằng [[đường ống dẫn khí]] đến một nhà máy tinh lọc và xử lý, nơi nó được chế biến.
 
Khí thiên nhiên được chế biến bằng các thiết bị tách lọc khí để loại bỏ các hợp chất không phải là hyđrôcacbon, đặc biệt là [[hyđrô sulfít]] và [[cacbon điôxít|điôxít cacbon]]. Hai quá trình sử dụng cho mục đích này là [[hấp thụ]] và [[hút bám]] (''absorption and adsorption'').
 
Quá trình hấp thụ sử dụng một chất lỏng hấp thụ khí tự nhiên và các tạp chất và phân tán chúng trong chất lỏng này. Trong một quá trình được gọi là hấp thụ hóa học, các tạp chất phản ứng với chất lỏng hấp thụ. Khí thiên nhiên sau đó thoát ra khỏi chất hấp thụ còn chất hấp thụ còn tạp chất ở lại trong chất lỏng. Các chất lỏng hấp thụ thường được sử dụng là [[nước]], các dung dịch amin nước (''aqueous amine'') và [[natri cacbonat|cacbonat natri]].
 
Quá trình hút bám là một quá trình cố đặc khí tự nhiên trên bề mặt một chất rắn hoặc một chất lỏng để loại bỏ tạp chất. Một chất thường được sử dụng cho mục đích này là [[cacbon]] (than), là chất có diện tích bề mặt trên đơn vị trọng lượng rộng. Ví dụ, các hợp chất lưu huỳnh trong phí tự nhiên được bề mặt hấp thụ của cacbon giữ lấy. Các hợp chất lưu huỳnh được kết hợp với [[hiđrô|hyđrô]] và [[ôxy|ôxi]] để tạo thành [[axít sulphuric]] và có thể loại bỏ.
 
Sau khi các tạp chất đã được loại bỏ trong các thiết bị tách lọc, khí thiên nhiên được vận chuyển đến các nhà máy chế biến nơi các hợp chất như [[êtan]], [[butan]] và các chất khác được tách ra để sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Các chất êtan, propan, và butan được sử dụng rộng rãi trong ngành hóa dầu.