Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Gotye”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n →‎Chú thích: clean up, replaced: {{reflist}} → {{Tham khảo}}
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 10:
| genre = [[Indie rock]], [[alternative rock]]
| occupation = Ca sĩ-nhạc sĩ, người chơi nhạc cụ, người viết bài hát
| instrument = Giọng hát, [[ghi-ta|ghita]], trống, nhạc cụ gõ (mõ...), nhạc cụ có phím, tổng hợp
| years_active = 2001–nay
| label = Fairfax, [[Universal Republic]], Independent, Samples 'n' Seconds, Inertia, Lucky Number, Eleven
Dòng 25:
Sinh ra tại [[Bỉ]], gia đình Gotye chuyển tới [[Úc]] khi anh được hai tuổi. Đầu tiên, họ định cư tại thành phố [[Sydney]], [[New South Wales]] trước khi sinh sống tại bang [[Victoria (Úc)|Victoria]]. Cha mẹ của anh biến đổi tên anh từ tiếng Đức gốc Bỉ "Wouter" sang tiếng Anh, "Walter" để đi học cho tiện.
 
Thời trẻ, Gotye đã đam mê âm nhạc. Anh học nhiều loại [[nhạc cụ]] khác nhau, đáng được anh chú ý nhất là [[dương cầm|piano]] và [[trống]]. Thời tuổi thanh thiếu niên (teen), Gotye thành lập ban nhạc với tên gọi là Downstares với ba người bạn thời trung học khác, gồm có Lucas Taranto (người mà vẫn biểu diễn với Gotye trong các chương trình trực tiếp hiện tại). Sau thời trung học, ban nhạc mỗi người một ngả.
 
Năm 2001, gia đình anh chuyển sang nhà mới, trước đó gia đình anh đã sống tại Melbourne để anh tiếp tục đi học.
Dòng 42:
{{quote box|align=right|width=30%|quote="Những chiếc gương phản chiếu lại nhau qua chỉnh sửa nghệ thuật, và nó rất giống với việc phản chiếu và quan sát của album."|source=—Gotye nói về bìa album ''Making Mirrors''.<ref name="autogenerated1"/>
}}
Vào cuối tháng 3 năm 2011, Gotye dự định sẽ đặt tên album thứ ba của mình là ''[[Making Mirrors]]''. Tựa đề của album này được lấy cảm hứng từ bức họa mà cha của anh vẽ trong thập niên 1980. Bức họa được anh khám phá ra trong những đống hóa đơn cũ và những tờ [[báo]] cũ trong chuồng trại của cha anh. Sau đó, nó được chỉnh sửa bởi phần mềm [[Adobe Photoshop|Photoshop]] để nó trở thành bìa của album. Gotye cũng cho biết thêm, anh sẽ phát hành album vào tháng 6 hoặc tháng 7 năm 2011, với một đĩa đơn trước ngày phát hành album.<ref name=autogenerated1>{{chú thích web|url=http://www.bendigoadvertiser.com.au/news/local/news/general/gotyes-mirrored-vision/2116370.aspx?storypage= |title=Gotye's Mirrored Vision |publisher=Bendigo Advertiser |date= |accessdate=29 March 2011}}</ref> Gotye cũng nói rằng album giống với những album trước đó và đa dạng hóa.<ref name="autogenerated1"/> Vào cuối tháng tư, 2011, Gotye được công bố trong danh sách Diễn xuất tại Liên hoan Âm nhạc Groovin' the Moo cùng với các nghệ sĩ Úc khác như Birds of Tokyo, Washington, Art vs Science và Architecture in Helsinki.<ref>{{chú thích báo |first= |last= |title=Birds of Tokyo & Gotye to play Groovin’ The Moo |url=http://valleyarm.com/featured-artist/birds-of-tokyo-gotye-to-play-groovin-the-moo |work= |publisher=[[Valleyarm]] |date=4 April 2011 |accessdate=19 April 2011 }}</ref> Anh cũng được công bố sẽ tham gia cùng với [[Coldplay]], [[Kanye West]], Jane's Addiction, Mogwai và những nghệ sĩ khác tại Liên hoan Âm nhạc Splendour in the Glass năm 2011.<ref>{{chú thích báo |first=Selenna |last=Nieva |title=Gotye to play at Splendour in the Grass! |url=http://valleyarm.com/featured-artist/gotye-to-play-at-splendour-in-the-grass |work= |publisher=[[Valleyarm]] |date=14 April 2011 |accessdate=19 April 2011 }}</ref>
 
Ngày 19 tháng 5 năm 2011, có một thông báo về ngày phát hành của album, vào ngày 19 tháng 8, là ngày mà Gotye khởi động album tại Liên hoan Đồ họa tại [[Nhà hát Opera Sydney]].<ref name="undercover.fm">[http://www.undercover.fm/news/14797-gotye-debuts-new-album-at-the-opera-house Gotye Debuts New Album at the Opera House]</ref> Gotye cũng phát hành đĩa đơn "[[Somebody That I Used to Know]]" hợp tác với nữ nhạc sĩ [[Kimbra]] người [[New Zealand]], được phát hành ngày [[6 tháng 7]] năm 2011 và ra mắt tại vị trí 27 trên bảng xếp hạng [[ARIA Charts|ARIA Singles Chart]].<ref name="themusicnetwork.com">[http://www.themusicnetwork.com/music-news/industry/2011/07/18/chart-wrap-up-christina-perris-strong-debut/ themusicnetwork.com]</ref> Đĩa đơn nhanh chóng leo lên top của bảng xếp hạng đĩa đơn ARIA mặc dù tần số phát thanh không được cao. Bài hát được ủng hộ bởi Ashton Kutcher và Lily Allen thông qua trang mạng [[Twitter]],<ref>{{chú thích web|title=Twitter / MrsLRCooper : Love this video...|url=http://twitter.com/#!/MrsLRCooper/status/94463921272004608|publisher=Twitter.com|accessdate=9 February 2012}}</ref> đẩy mạnh số lượng người theo dõi Gotye trên trang mạng này lên con số hàng triệu.<ref>{{chú thích web|last=Jolly|first=Nathan|title=Ashton Kutcher gets behind Gotye|url=http://www.themusicnetwork.com/music-news/artists/2011/07/21/ashton-kutcher-gets-behind-gotye/ |work=The Music Network|accessdate=9 February 2012|date=21 July 2011}}</ref><ref>{{chú thích web| last= Jolly| first=Nathan|title=Lily Allen joins Gotye praise chorus|url=http://www.themusicnetwork.com/music-news/artists/2011/07/25/lily-allen-joins-gotye-praise-chorus/|work=The Music Network|accessdate=9 February 2012|date=25 July 2011}}</ref> Đĩa đơn đạt đến doanh số 560.000 bản tiêu thụ (đạt 8x Bạch kim tại Úc), giành vị trí quán quân trên các bảng xếp hạng [[RIANZHiệp hội Công nghiệp ghi âm New Zealand|New Zealand Singles Chart]] của New Zealand, [[Ultratop|Belgium Singles Chart]] của Bỉ, [[MegachartsMegaCharts|Dutch Singles Chart]] của Hà Lan, [[Media Control Charts|German Singles Chart]] của Đức, [[UK Singles Chart]] của Liên hiệp Anh và [[Billboard Hot 100|''Billboard'' Hot 100]] của Mỹ.
 
==Danh sách đĩa nhạc==
Dòng 104:
|{{won}}
|-
|rowspan="3"| [[Giải Sự lựa chọn của Giới trẻ|Teen Choice Awards]]
|Chính anh ấy
|Choice Breakout Artist