Ở động vật linh trưởng,[1] gồm cả con người, khớp khuỷu tay là khớp giữa xương cánh tay ở cánh tay và xương trụ và xương quay ở cẳng tay. Một trong những điểm đáng chú ý ở vùng khuỷu tay là cùi chỏ.
Drapeau, MS (2008). “Articular morphology of the proximal ulna in extant and fossil hominoids and hominins”. J Hum Evol. 55 (1): 86–102. doi:10.1016/j.jhevol.2008.01.005. PMID18472143.
Kapandji, Ibrahim Adalbert (1982). The Physiology of the Joints: Volume One Upper Limb (ấn bản thứ 5). New York: Churchill Livingstone.
Palastanga, Nigel; Soames, Roger (2012). Anatomy and Human Movement: Structure and Function (ấn bản thứ 6). Elsevier. ISBN9780702040535.
Paraskevas, G; Papadopoulos, A; Papaziogas, B; Spanidou, S (2004). Argiriadou, H; Gigis, J. “Study of the carrying angle of the human elbow joint in full extension: a morphometric analysis”. Surgical and Radiologic Anatomy. 26 (1): 19–23. doi:10.1007/s00276-003-0185-z. PMID14648036.
Tukenmez, M; Demirel, H; Perçin, S; Tezeren, G (2004). “Measurement of the carrying angle of the elbow in 2,000 children at ages six and fourteen years”. Acta Orthopaedica et Traumatologica Turcica. 38 (4): 274–6. PMID15618770.
Van Roy, P; Baeyens, JP; Fauvart, D; Lanssiers, R (2005). Clarijs, JP. “Arthro-kinematics of the elbow: study of the carrying angle”. Ergonomics. 48 (11–14): 1645–56. doi:10.1080/00140130500101361. PMID16338730.