Nghiệm pháp Allen
Trong y học, nghiệm pháp Allen (hay gọi là test Allen) là một nghiệm pháp thăm dò triệu chứng thực thể sử dụng trong khám sức khỏe về lưu lượng máu động mạch đến bàn tay. Edgar Van Nuys Allen mô tả nghiệm pháp này năm 1942.[1] Năm 1952, Irving S Wright đã sửa đổi lại hầu như toàn bộ nội dung của nghiệm pháp ban đầu, đặt tên là nghiệm pháp Allen sửa đổi.[2]
Nghiệm pháp Allen Allen test | |
---|---|
Nghiệm pháp | |
Động mạch ở bàn tay |
Phương pháp
sửaNghiệm pháp Allen gốc
sửaLà nghiệm pháp do Allen đề xuất được thực hiện như sau:[1]
- Bệnh nhân được yêu cầu đồng thời nắm chặt cả hai nắm tay trong vòng 1 phút.
- Ấn vào đồng thời động mạch quay ở hai tay cùng lúc để ngăn chặn dòng chảy.
- Sau đó yêu cầu bệnh nhân mở nhanh các ngón tay của cả hai bàn tay và người khám so sánh màu sắc của cả hai bàn tay. Tay sẽ ấm và hồng trở lại
- Thực hiện tương tự đối với động mạch trụ.
Nghiệm pháp Allen sửa đổi
sửaKhám từng tay một, thay vì khám hai tay cùng một lúc:[2]
- Đưa tay lên cao và bệnh nhân được yêu cầu nắm chặt tay trong khoảng 30 giây.
- Ấn vào đồng thời động mạch quay và động mạch trụ để ngăn chặn dòng chảy.
- Yêu cầu bệnh nhân vẫn để tay lên cao và mở bàn tay. Bàn tay trắng bệch.
- Nhấc ngón tay chẹn động mạch trụ trong khi vẫn ấn ngón tay vào động mạch quay, quan sát màu sắc bàn tay hồng lại từ 5 đến 15 giây.
Nếu màu sắc bàn tay hồng hào trở lại như mô tả, nghiệm pháp Allen được coi là bình thường. Nếu bất thường, nguồn cung máu từ động mạch trụ cho bàn tay là không đủ.[2] Lúc này, lấy khí máu động mạch ở động mạch quay là không an toàn.
Ý nghĩa lâm sàng
sửaTính hữu ích của nghiệm pháp Allen sửa đổi còn nhiều nghi vấn,[3] và không có mối tương quan trực tiếp nào với việc giảm biến chứng thiếu máu cục bộ của lấy khí máu động mạch ở động mạch quay đã từng được chứng minh. Năm 1983, Slogoff và đồng nghiệp đã làm khí máu động mạch quay 1.782 lần, phát hiện ra rằng 25% trong số đó bị tắc hoàn toàn động mạch quay nhưng không có tác dụng phụ rõ ràng.[4] Một số báo cáo được công bố trong đó di chứng thiếu máu cục bộ vĩnh viễn vẫn xảy ra ngay cả khi nghiệm pháp Allen bình thường.[5][6] Ngoài ra, các kết quả nghiệm pháp Allen dường như không tương quan với lưu lượng máu đầu chi. Kết quả này được chứng minh khi tiêm thuốc nhuộm huỳnh quang.[7][8]
Có một số bản sửa đổi nội dung nghiệm pháp được đề xuất để cải thiện độ tin cậy.[9]
Tham khảo
sửa- ^ a b Allen EV (1929). “Thromboangiitis obliterans: methods of diagnosis of chronic arterial lesions distal to the wrist with illustrative cases”. Am J Med Sci. 178 (3): 165–189. doi:10.1097/00000441-192908000-00009. PMC 1933752. PMID 19312256.
- ^ a b c “Modified Allen test”. World Health Organization. ngày 1 tháng 1 năm 2010.
|first=
thiếu|last=
(trợ giúp); Chú thích journal cần|journal=
(trợ giúp) - ^ Jarvis, MA; Jarvis, CL; Jones, R; Spyt, TJ (tháng 10 năm 2000). “Reliability of Allen's test in selection of patients for radial artery harvest”. Ann. Thorac. Surg. 70 (4): 1362–5. doi:10.1016/S0003-4975(00)01551-4. PMID 11081899.
- ^ Slogoff, S; Keats, AS; Arlund, C (1983). “On the safety of radial artery cannulation”. Anesthesiology. 59 (1): 42–7. doi:10.1097/00000542-198307000-00008. PMID 6859611.
- ^ Thompson, SR; Hirschberg, A (1988). “Allen's test re-examined”. Crit Care Med. 16 (9): 915. doi:10.1097/00003246-198809000-00025. PMID 3402240.
- ^ Wilkins, RG (1985). “Radial artery cannulation and ischaemic damage: A review” (PDF). Anaesthesia. 40 (9): 896–899. doi:10.1111/j.1365-2044.1985.tb11055.x. PMID 3901815.
- ^ McGregor, AD (1987). “The Allen test – an investigation of its accuracy by fluorescein angiography”. J Hand Surg Br Vol. 12 (1): 82–85. doi:10.1016/0266-7681(87)90065-9. PMID 3572188.
- ^ Stead, SW; Stirt, JA (1985). “Assessment of digital blood flow and palmar collateral circulation”. Journal of Clinical Monitoring and Computing. 2 (1): 29–34. doi:10.1007/bf02915870. PMID 3835222.
- ^ Asif, M; Sarkar, PK (tháng 8 năm 2007). “Three-digit Allen's test”. Annals of Thoracic Surgery. 84 (2): 686–687. doi:10.1016/j.athoracsur.2006.11.038. PMID 17643672.