Paulo Dino Gazzaniga (sinh ngày 2 tháng 1 năm 1992) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Argentina hiện đang thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ EFL Championship Fulham và đội tuyển quốc gia Argentina.

Paulo Gazzaniga
Gazzaniga thi đấu cho Southampton năm 2015
Thông tin cá nhân
Tên đầy đủ Paulo Dino Gazzaniga[1]
Ngày sinh 2 tháng 1, 1992 (32 tuổi)[2]
Nơi sinh Murphy, Argentina
Chiều cao 1,96 m[3]
Vị trí Thủ môn
Thông tin đội
Đội hiện nay
Fulham
Số áo 1
Sự nghiệp cầu thủ trẻ
Năm Đội
Unión y Cultura
2007–2011 Valencia
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp*
Năm Đội ST (BT)
2011–2012 Gillingham 20 (0)
2012–2017 Southampton 21 (0)
2016–2017Rayo Vallecano (mượn) 32 (0)
2017–2021 Tottenham Hotspur 22 (0)
2021Elche (mượn) 8 (0)
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Năm Đội ST (BT)
2018– Argentina 1 (0)
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 27 tháng 10 năm 2019
‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 27 tháng 11 năm 2018

Tuổi thơ sửa

Gazzaniga sinh ra ở Murphy, Santa Fe, một thị trấn nhỏ ở Argentina, đó cũng là nơi huấn luyện viên của anh tại Tottenham Hotspur Mauricio Pochettino được sinh ra. Cha anh là Daniel Gazzaniga, một cầu thủ bóng đá, cũng như anh trai Gianfranco của anh, người đang là thủ môn cho SD Ponferradina. Gazzaniga học tại trường công lập duy nhất và một trường cao đẳng thứ cấp ở Murphy. Anh chơi cho đội bóng đá của Centro Recreativo Unión y Cultura ở Murphy với vị trí là một thủ môn.

Sự nghiệp câu lạc bộ sửa

Gillingham sửa

Vào năm 2007, khi anh 15 tuổi, Gazzaniga rời đội bóng quê hương Unión y Cultura cùng với anh trai và cha anh đến Tây Ban Nha, nơi anh gia nhập đội trẻ của câu lạc bộ Tây Ban Nha Valencia. Tuy nhiên, anh đã không được qua được kì thi tuyển của "Bầy Dơi'', và sau đó phải ra đi vào tháng 5 năm 2011.

Vào tháng 7 năm 2011, Gazzaniga đã ký hợp đồng hai năm với câu lạc bộ ở Giải Hạng Hai nước Anh là Gillingham, và anh đã ngay lập tức cạnh tranh với Ross Flitney cho vị trí người gác đền số một. Gazzaniga được tuyển trạch viên của Wigan Athletic Gary Penrice tiến cử cho HLV Gillingham Andy Hessenthaler, sau khi anh rời Valencia. Anh ra mắt cho câu lạc bộ vào ngày 4 tháng 10, trong trận thua 1-3 trước Barnet.

Southampton sửa

Ngày 20 tháng 7 năm 2012, Gazzaniga đã ký một hợp đồng bốn năm với đội bắng mới thăng hạng Ngoại Hạng Anh Southampton, với Tommy Forecast được cho Gillingham mượn như là một phần của thỏa thuận này. Anh nói "nó thật điên rồ" nhưng nó giống như "một giấc mơ".

Gazzaniga ra mắt clb vào ngày 28 tháng 8 trong chiến thắng 4-1 trước Stevenage ở vòng hai Cup Liên đoàn. Anh ra mắt giải Ngoại Hạng gần một tháng sau, vào ngày 22 tháng 9 trong chiến thắng 4-1 trước Aston Villa.

Nhưng Gazzaniga đã dần dần mất đi vị trí bởi sự hiện diện của Kelvin Davis, Artur Boruc và Fraser Forster, và anh chỉ được ra sân 2 lần trong mùa giải 2014-15.

Anh có hai lần ra sân ở Premier League mùa 2015-16, trong trận thua 0-1 trước Crystal Palace và trận thua 0-2 trước Tottenham Hotspur, cả hai trận đấu đều diễn ra vào tháng 12 năm 2015. Anh đã ký một hợp đồng mới bốn năm mới với Southampton vào ngày 11 tháng 9 năm 2015.

 
Gazzaniga bắt cho Southapton năm 2015

Vào ngày 29 tháng 7 năm 2016, Gazzaniga đã gia nhập câu lạc bộ Rayo Vallecano theo dạng cho mượn trước khi mùa giải 2016-17 khởi tranh.

Tottenham Hotspur sửa

Vào ngày 23 tháng 8 năm 2017, Gazzaniga đã ký hợp đồng 5 năm với Tottenham Hotspur. Anh được hội ngộ với huấn luyện viên đồng hương của mình và cựu huấn luyện viên của Southampton, Mauricio Pochettino. Anh ra mắt câu lạc bộ mới vào ngày 5 tháng 11 năm 2017, trong chiến thắng 1-0 trước Crystal Palace và đã có màn trình diễn rất ấn tượng. Pochettino nói rằng Gazzaniga đã thể hiện "cực kỳ tuyệt vời" trong màn ra mắt này.

Vào năm 2018-19 sau khi bắt chính cho Tottenham ở các trận đấu ở Ngoại Hạng Anh với Brighton & Hove Albion và Huddersfield Town, tại EFL Cup trong các trận đấu với Watford và West Ham United và trận đấu ở UEFA Champions League với PSV, anh đã có được cuộc gọi vào đội tuyển quốc gia Argentina đầu tiên. Anh trở thành thủ môn số hai cho Tottenham mùa 2018-19 và 2019-20 và chơi rất hay mỗi khi anh được trao cơ hội thay Lloris.

Sự nghiệp Quốc tế sửa

Gazzaniga ra sân cho đội tuyển Argentina lần đầu tiên vào ngày 20 tháng 11 năm 2018, anh vào sân để thay cho Gerónimo Rulli ở phút 59 trong trận giao hữu với Mexico, và giúp giữ sạch lưới trong chiến thắng 2-0 cho Argentina.

Thống kê sự nghiệp sửa

Câu lạc bộ sửa

Kể từ trận đấu diễn ra vào ngày 27 tháng 10 năm 2019

Thống kê số lần ra sân và số bàn thắng tại các giải đấu cấp CLB

Câu lạc bộ Mùa giải Giải đấu Cúp quốc gia Cúp Liên đoàn Khác Tổng cộng
Hạng Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn Trận Bàn
Gillingham 2011-12 League Two 20 0 1 0 0 0 1 0 22 0
Southampton 2012-13 Premier League 9 0 0 0 2 0 - 11 0
2013-14 Premier League 8 0 0 0 0 0 - 8 0
2014-15 Premier League 2 0 0 0 0 0 - 2 0
2015-16 Premier League 2 0 0 0 0 0 - 2 0
2016-17 Premier League 0 0 - - - 0 0
Toàn bộ 21 0 0 0 2 0 - 23 0
Rayo Vallecano (cho vay) 2016-17 Segunda División 32 0 2 0 - - 34 0
Tottenham Hotspur 2017-18 Premier League 1 0 0 0 0 0 0 0 1 0
2018-19 Premier League 3 0 2 0 5 0 1 0 11 0
2019-20 Premier League 4 0 0 0 1 0 1 0 6 0
Tổng cộng 8 0 2 0 6 0 2 0 18 0
Tổng cộng sự nghiệp 81 0 5 0 8 0 2 0 97 0

Quốc tế sửa

Kể từ trận đấu diễn ra vào ngày 20 tháng 11 năm 2018

Thống kê số lần ra sân và số bàn thắng tại đội tuyển quốc gia theo từng năm
Đội tuyển quốc gia Năm Trận Bàn
Argentina 2018 1 0
Tổng cộng 1 0

Danh hiệu sửa

Southampton

Tottenham Hotspur

Tham khảo sửa

  1. ^ “Squads for 2017/18 Premier League confirmed”. Premier League. ngày 1 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2017.
  2. ^ “Paulo Gazzaniga”. Barry Hugman's Footballers.
  3. ^ “Paulo Gazzaniga: Overview”. Premier League. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2018.
  4. ^ “Report: Southampton 2–1 Blackburn Rovers (Under-21 Premier League Cup final second leg)”. Southampton F.C. ngày 20 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2016.
  5. ^ McNulty, Phil (ngày 1 tháng 6 năm 2019). “Tottenham Hotspur 0–2 Liverpool”. BBC Sport. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2019.

Liên kết ngoài sửa