Sinitta Malone (tên nghệ danh: Sinitta) là một ca sĩ người Hoa Kỳ. Cô bắt đầu gặt hái thành công trong sự nghiệp vào khoảng giữa những năm 1980 với đĩa đơn "So Macho" và một số bài hát nổi bật khác trong giai đoạn tiếp sau đó. Đến những năm 2000, cô được biết đến nhiều hơn khi tham gia các chương trình ti vi như "Loose Women", "The Xtra Factor" và "This Morning" tại Anh. Cô cũng từng góp mặt trong sê-ri truyền hình thực tế "I'm a Celebrity...Get Me Out of Here!" của đài ITV (Anh Quốc) năm 2011. Tổng giá trị tài sản năm 2016 của Sinitta ước tính khoảng 7 triệu bảng Anh.[2]

Sinitta
Sinitta năm 2012
SinhSinitta Malone
19 tháng 10, 1963 (60 tuổi)[1]
Seattle, Washington, Hoa Kỳ
Quốc tịchHoa KỳAnh Quốc
Nghề nghiệpCa sĩ, người dẫn chương trình, vũ công, diễn viên
Năm hoạt động1981–nay
Chương trình TVGrease Is The Word
Phối ngẫu
Andy Willner (cưới 2002–2010)
Con cái2
Cha mẹMiquel Brown (mẹ)
Người thânAmii Stewart
Sự nghiệp âm nhạc
Thể loạiR&B, pop, soul, disco, dance
Nhạc cụGiọng hát
Năm hoạt động1983–nay
Hãng đĩaSyco, Fanfare
Websitesinitta.com

Sự nghiệp sửa

Khoảng đầu sự nghiệp sửa

Năm 1981, nữ ca sĩ, khi đó lấy tên là Sinitta Renet, đảm nhận vai Frankie trong phim điện ảnh Shock Treatment.[3][4] Khoảng thời gian này, Sinitta cũng hoạt động tại sân khấu kịch West End (Anh) với một số đóng góp có thể kể đến như vai diễn trong vở nhạc kịch "Little Shop of Horrors" của Alan MenkenHoward Ashman.

1986 – 1988: Sinitta! và So Macho sửa

Năm 1986, Sinitta phát hành đĩa đơn "So Macho", ra mắt ở vị trí #59 trên bảng xếp hạng UK Single Chart;[5] tuy đứng hạng thấp nhưng sau đó bài hát đã dần vươn lên #16 vào tháng 8 năm 1986, và tiếp tục lên #5.[6][7] Sang tuần tiếp theo, "So Macho" đạt đỉnh #2, trở thành đĩa đơn lọt top 3 đầu tiên của ca sĩ.[8][9][10] Ca khúc trụ top 15 trong sáu tuần liên tục tại Anh Quốc cũng như lọt top 20 tại Thụy Điển, Úc và Áo. "So Macho" trở thành ca khúc có thứ hạng cao nhất trong sự nghiệp của Sinitta. Tuy vậy, đĩa đơn "Feels Like the First Time" tiếp theo đó chỉ đứng hạng 45 tại Anh. Năm 1987, cô phát hành đĩa đơn "Toy Boy". Bài hát ra mắt ở #41 rồi sau đó tiến lên #4 trên UK Single Chart và trụ hạng được ba tuần.[11][11][12] Tổng cộng, đĩa đơn nằm trong top 20 được tám tuần. Đĩa đơn cũng đạt #3 tại Thụy Sĩ, và vươn lên top 15 tại Ireland, Bỉ, Thụy Điển, Phần Lan và Đức. Sinitta ra mắt đĩa đơn nối tiếp, "GTO", ca khúc đạt được #15 tại Anh.[13] "GTO" là đĩa đơn đạt hạng ba đầu tiên của cô tại Tây Ban Nha, ở các quốc gia khác, đĩa đơn đạt #9 tại Na Uy, #11 tại Thụy Sĩ và #13 tại Ireland. Ngày 26 tháng 12 năm 1987, Sinitta phát hành album phòng thu đầu tay "Sinitta!", lần lượt đạt #34 và #69 trên bảng các xếp hạng album của Anh[14] và Úc. Đĩa đơn "Cross My Broken Heart" từ album lần lượt đạt #6 và #7 tại Anh và Ireland. Tại Tây Ban Nha, đĩa đơn đạt #12, trở thành bài hát nằm trong top 15 thứ hai của cô ở nước này. Năm 1988, đĩa đơn "I Don't Believe In Miracles" của cô đạt #22 trên bảng xếp hạng tại Anh.

1989 – 1990: Wicked và Right Back Where We Started From sửa

Album phòng thu thứ hai, "Wicked" được ê-kíp sản xuất của cô phát hành vào ngày 18 tháng 10 năm 1989. Đĩa đơn "Right Back Where We Started From" từ album ra mắt ở #19 và sau đó vươn lên #6 trên bảng xếp hạng tại Anh.[15][16] Trong hai tuần tiếp theo, bài hát giữ vị trí #4[17][18]; bốn tuần sau nữa, bài hát trụ trong top 30. Trên toàn châu Âu, đĩa đơn đạt #7 tại Phần Lan và nằm trong top 25 tại Đan Mạch, Tây Ban Nha và Đức. Ở khu vực châu Úc, "Right Back Where We Started From" đạt #7 tại Úc và #2 tại New Zealand, trở thành đĩa đơn xếp hạng cao nhất của nữ ca sĩ tại hai quốc gia này. Ca khúc còn đạt thành công khi lọt vào bảng xếp hạng cuối năm của các nước: #45 tại Úc, #38 tại New Zealand và #49 tại Anh.[19][20][21] Đĩa đơn kế tiếp, "Love On a Mountain Top", đạt #20 tại Anh và #81 tại Úc.[22] Năm 1990, Sinitta phát hành đĩa đơn "Hitchin' a Ride", một bài thu âm lại (cover) từ bản gốc của nhóm Vanity Fare. Ca khúc không được quảng bá rộng rãi nhưng vẫn vươn lên hạng 20 trên bảng xếp hạng của Anh.

1992 – 1997: Shame Shame Shame và Naughty Naughty sửa

Tháng 7 năm 1992, bản cover bài "Shame Shame Shame" (1974) của Sinitta ra mắt tại #31 trên bảng xếp hạng tại Anh Quốc,[23] đĩa đơn sau đó đạt vị trí cao nhất #28.[24] Tháng 4 năm 1993, Sinitta phát hành đĩa đơn "The Supreme" nhưng chỉ đạt #49 tại Anh.[25] Năm 1995, Sinitta công bố "Naughty Naughty", album duy nhất mà cô phát hành tại châu Á.[26][27] Năm 1997, cô thay thế Irene Cara đi diễn chung với các ca sĩ SoniaLuke Goss (từ ban nhạc Bros) trong buổi hòa nhạc pop và rock "What a Feeling".[28]

2004 – 2016: The X Factor và các hoạt động truyền hình sửa

Sinitta có tham gia vào cuộc thi tìm kiếm tài năng âm nhạc The X Factor (phiên bản Anh) với tư cách trợ lý giám khảo của Simon Cowell. Năm 2004, ở mùa đầu tiên, cô tư vấn cho Simon để tìm ra ba tiết mục vào vòng chung kết, trong đó có quán quân Steve Brookstein.[29][30] Năm 2005, Sinitta tiếp tục giúp Simon chọn ra ba nhóm nhạc vào chung kết. Năm 2006, Sinitta tư vấn cho ông để chon ra quán quân Leona Lewis, một trong những thí sinh nổi bật bước ra từ cuộc thi.[31][32][33] Năm 2007, Sinitta làm giám khảo cho chương trình "Grease Is the Word" của đài ITV.[34][35][36] Năm 2008 Sinitta tiếp tục tham gia vào talkshow "Loose Women".[37][38][39] Năm 2009, nữ ca sĩ tái hợp X Factor và chọn được nam ca sĩ Olly Murs. Đến năm 2010, Sinitta cùng Simon khai phá tiềm năng ban nhạc One Direction, nhóm thí sinh thành công nhất sau cuộc thi từ trước đến nay.[40][41][42][43] Năm 2016, Sinitta góp mặt trong chương trình truyền hình thực tế "Ant & Dec's Saturday Night Takeaway".[44][45][46] Cũng vào thời điểm này, cô trở thành dẫn chương trình cho talkshow "Up Late with Rylan".[47][48] Cô còn tham gia thi đấu trong cuộc thi đầu bếp MasterChef phiên bản người nổi tiếng (Celebrity Masterchef) tuy rằng bị loại sớm ở Tuần 1.[49][50]

2017: Tin đồn quay lại The X Factor sửa

Năm 2017, có tin đồn rằng Sinitta sẽ quay lại The X Factor phiên bản Anh Quốc.[51]

Danh sách album và bài hát sửa

Album phòng thu

Chú thích sửa

  1. ^ “Simon Cowell's Ex Girlfriend Sinitta Lied About Her Age”. Entertainment Wise. Truy cập ngày 9 tháng 11 năm 2015.[liên kết hỏng]
  2. ^ “Sinitta – Net Worth in 2016”. www.the-net-worth.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2017.
  3. ^ Harper, Jessica; Young, Cliff De; O'Brien, Richard; Quinn, Patricia (ngày 30 tháng 10 năm 1981), Shock Treatment, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017
  4. ^ “Celebrity birthdays: Sinitta turns 46”. HOLA (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  5. ^ “Official Singles Chart Top 99 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  6. ^ “Official Singles Chart Top 100 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  7. ^ “Official Singles Chart Top 100 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  8. ^ “UK Number 2 Hits 1980s – World Charts”. www.worldcharts.co.uk. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  9. ^ Mirror.co.uk (ngày 8 tháng 1 năm 2010). “Sinitta: Top 10 things you need to know about the Dancing On Ice star”. mirror. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  10. ^ “So Macho / Cruising – Sinitta | British Chart Singles”. www.britishchartsingles.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.[liên kết hỏng]
  11. ^ a b “Official Singles Chart Top 100 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  12. ^ “Official Singles Chart Top 100 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  13. ^ “Official Singles Chart Top 100 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  14. ^ “Official Albums Chart Top 100 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  15. ^ “Official Singles Chart Top 100 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  16. ^ “Official Singles Chart Top 100 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  17. ^ “Official Singles Chart Top 100 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  18. ^ “Official Singles Chart Top 100 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  19. ^ “australian-charts.com – Forum – Top 100 End of Year AMR Charts – 1980s (ARIA Charts: Special Occasion Charts)”. ngày 6 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  20. ^ “Top 100 1989 – UK Music Charts”. www.uk-charts.top-source.info. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  21. ^ “The Official New Zealand Music Chart”. THE OFFICIAL NZ MUSIC CHART (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  22. ^ “Official Singles Chart Top 100 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  23. ^ “Official Singles Chart Top 75 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  24. ^ “Official Singles Chart Top 75 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  25. ^ “Official Singles Chart Top 75 | Official Charts Company”. www.officialcharts.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  26. ^ “Sinitta – Naughty Naughty”. Discogs (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  27. ^ “Simon Cowell and Sinitta Dating”.[liên kết hỏng]
  28. ^ “Sinitta: Did she ever find her "Toy Boy"?”. The Bubble Burst. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2017.
  29. ^ Thornton, Kate; Cowell, Simon; Osbourne, Sharon; Walsh, Louis (ngày 16 tháng 10 năm 2004), Judges' Houses, truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017
  30. ^ Aitkenhead, Decca (ngày 5 tháng 12 năm 2014). “Steve Brookstein, The X Factor's first winner: 'Simon Cowell is irrelevant'. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
  31. ^ Yaqoob, Janine (ngày 6 tháng 8 năm 2016). “Has Simon Cowell dumped best pal Sinitta from X Factor? She's fears so”. mirror. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2017.
  32. ^ “The X Factor's 5 biggest selling acts”. Digital Spy (bằng tiếng Anh). ngày 25 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
  33. ^ “Who's the biggest X Factor star of them all? We count up the stats and crown the REAL winner” (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
  34. ^ Ball, Zoë; Friedman, Brian; Gest, David; Ian, David (ngày 7 tháng 4 năm 2007), Grease Is the Word, truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017
  35. ^ “Grease is the Word ITV – Choosing who will play Sandy and Danny”. www.thisistheatre.com. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
  36. ^ Erith and District Swimming Club (ngày 27 tháng 8 năm 2016), Grease Is The Word Final 2007 Edited Highlights, truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017
  37. ^ Mirror.co.uk (ngày 24 tháng 10 năm 2008). “X Factor's Sinitta on ex Simon Cowell, bitching behind the scenes and her husband living in Hong Kong”. mirror. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
  38. ^ “Sinitta the new Loose Woman – Page 2”. Digital Spy. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
  39. ^ Brambles, Jackie; Malone, Sinitta Renet; McGiffin, Carol; McDonald, Jane (ngày 10 tháng 4 năm 2008), Episode #12.151, truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017
  40. ^ “How One Direction stayed the world's biggest band even after it stopped existing”. The Verge. ngày 13 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
  41. ^ Smith, Mikey (ngày 10 tháng 2 năm 2016). “The best ever X Factor contestants – where are they now?”. mirror. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.
  42. ^ metrowebukmetro (ngày 12 tháng 12 năm 2010). “X Factor final: One Direction booted off, Rebecca and Matt left”. Metro. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
  43. ^ WalesOnline (ngày 7 tháng 12 năm 2012). “One Direction the biggest winners from X Factor – despite coming third”. walesonline. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
  44. ^ “Sinitta in a leaf bikini steals the show in Who Shot Simon Cowell? sketch”. RadioTimes (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
  45. ^ “Sinitta 19 on Twitter”. Twitter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
  46. ^ “Who shot Simon Cowell in Ant & Dec's funny skit?”. Digital Spy (bằng tiếng Anh). ngày 26 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
  47. ^ “Up Late with Rylan”. Sinitta (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
  48. ^ “Up Late With Rylan (May 16): Who is on tonight's show? Emilia Fox, Jess Wright, Sinitta & more…”. Unreality TV (bằng tiếng Anh). ngày 16 tháng 5 năm 2016. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
  49. ^ “Sinitta eliminated from Celebrity MasterChef after serving raw meat”. Evening Standard (bằng tiếng Anh). ngày 23 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
  50. ^ “Who is on Celebrity MasterChef 2016? The full line-up and verdict so far”. The Telegraph (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2017.
  51. ^ “Sinitta As Mermaid on XFactor 2017?”. Sinitta (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2017.

Liên kết ngoài sửa