Đền Nội thờ Quốc tổ Lạc Long Quân sửa

Làng Bình Đà (xã Bình Minh, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội) lưu giữ một quần thể kiển trúc nghệ thuật độc đáo với đền, đình, chùa, miếu... Trong đó, nổi bật là ngôi đền Nội thờ Lạc Long Quân - Quốc tổ của người Việt. Đền Nội được đánh giá là một trong những ngôi đền đẹp nhất khu vực đồng bằng Bắc Bộ ngày nay.[1]

Truyền thuyết sửa

Lạc Long Quân (khoảng thế kỷ 8-7 TCN) (chữ Hán: 貉龍君) tên húy là Sùng Lãm (崇纜), là nhân vật truyền thuyết Việt Nam.

Theo Đại Việt Sử Ký thì ông là con trai của Kinh Dương Vương Lộc Tục và con gái Động Đình Quân tên là Thần Long. Lạc Long Quân được kế nghiệp vua cha lấy hiệu là Hùng Hiền Vương. Lạc Long Quân kết duyên cùng Âu Cơ con gái Đế Lai chúa tể động Lăng Xương,một xứ lân cận Văn Lang bên bờ giải Âu Giang. Sau đó Âu Cơ có thai 3 năm 10 ngày sinh ra bọc trăm trứng, nở ra một trăm người con. Nhưng ông giống Rồng, bà giống Tiên, thủy hỏa tương khắc, không thể sống với nhau lâu dài. Sau khi lưu luyến làm lễ chia tay để Âu Cơ dẫn các con ngược đường về đất Phong Châu, Lạc Long Quân cùng 50 người con còn lại xuối đường lần ra Nam Hải. Đến đất Bình Đà bây giờ, cách biển không xa, sông nước mênh mang, Lạc Long Quân truyền cho các con dừng chân dựng trại, nổi lửa nấu ăn. Đi dạo khắp vùng một lượt, thấy thế đất nơi đây màu mỡ, sông suối lượn quanh, nhiều thềm đất cao mang dáng long chầu hổ phục, bèn quyết định chọn đất này làm nơi dựng xây cơ nghiệp. Ngày ngày, Lạc Long Quân cùng quần thần văn võ dạy dân trồng dâu nuôi tằm dệt vải, đuổi diệt thú dữ. Lại truyền cho các con lực chọn dân chúng khỏe mạnh, tỏa đi khắp vùng duyên hải khai khẩn đất hoang, lấn biển mở mang bờ cõi... Chẳng bao lâu, cả vùng đất với trung tâm là Bảo Cựu cuộc sống dân lành đã trở nên trù phú, mọi thảo khấu trong vùng bị dẹp tan. Ruộng đồng, làng xóm ngày một mở rộng, hình thành nên những làng xóm đầu tiên của châu thổ sông Hồng sau này. Vào một ngày cuối tháng Hai lịch trăng, trời bỗng nhiên nổi dông gió, sấm chớp lóe sáng cả vùng, Quốc tổ ăn vận trang phục oai phong, lẫm liệt, thân thương nhìn các con cháu và dân làng một lượt rồi hóa trong đêm. Cảm thương và tỏ lòng tri ân với người có công khai hóa vùng đất Bảo Cựu này. vua quan cùng dân làng tổ chức lễ tang linh đình, táng ngài tại gò đất cao nhất vùng (sau này gọi là gò Tam Thai), lập miếu (nay là Đền Nội) quanh năm thờ phụng.[2]

Vị trí địa lí sửa

Đền Nội nằm ở vùng châu thổ sông Hồng thuộc xã Bảo Cựu - Phủ Ứng Thiên - Đỗ Động Giang (nay là làng Bình Đà-xã Bình Minh-huyện Thanh Oai- TP Hà Nội). Đền tọa lạc trên lưng con rùa (Hoàng Quy Cung), với thế đất Lục long chầu hội, Lưỡng phượng giao phi. Cửa đền nhìn ra hướng Tây, đồng điền nhô lên Ba Gò (Tam Thai) mang dáng hình hổ phục, nơi đây tương truyền là nơi đặt mộ Quốc tổ Lạc Long Quân. [3]

Lược sử sửa

Trải qua nhiều giai đoạn biến cố thăng trầm của lịch sử, đền thờ đã nhiều lần được trùng tu sau mỗi kỳ bị đốt phá, hủy hoại.

  • Lần thứ nhất do Mã Viện chỉ huy đốt phá đền và bắt đi nhiều người tài giỏi trong vùng.
  • Lần thứ hai do Cao Biền (lĩnh ý vua Đường Ý Tôn từ Trung Quốc) sang làm An Nam đô hộ sứ, chỉ huy đốt đền và làm nhiều bùa phép trấn yểm chế ngự long mạch Bảo Đà (Tấu thư địa lí kiểu tự ghi) .
  • Lần thứ ba do giặc Mã Kỳ (tướng nhà Minh) kéo quân về đốt đền để thiết lập đồn lũy chống Lê Lợi.
  • Lần thứ tư do bọn tay sai của thực dân Pháp đốt phá tất cả mọi nơi thờ tự tâm linh của vùng này không cho Việt Minh trú ngụ.

Lần thứ năm do mục đích tiêu thổ kháng chiến, chính nhân dân và cán bộ Việt Minh đốt đền để ra đi kháng chiến 9 năm.

Đền được xây dựng từ cổ xưa, dấu ấn còn lại chỉ còn lại qua những tấm bia thời Lý, thời Lê Trung Hưng. Đến thời Khải Định (1918) Đền được trùng tu với quy mô hoành tráng. Trải qua nhiều lần trùng tu phục dựng, năm 2010 Đền được nhà nước đầu tư phục dựng quy mô hoàn chỉnh, trở thành một khu di tích lịch sử-văn hóa lộng lẫy.

Tiềm năng về giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của Đền Nội đã được Bộ Văn hóa Thông tin cấp bằng di tích ngày 13 tháng 3 năm 1985.

Năm 1990, Đền tiếp tục được công nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia.

Năm 2014, Lễ hội Bình Đà được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đầu tiên của thành phố Hà Nội.

Di tích sửa

Đại Đình sửa

Đại Đình bao gồm Đệ Nhất cung (hậu cung), Đệ Nhị cung (tiền tế), Đệ Tam cung (đại bái), hai dãy Tả mạc, Hữu mạc và Tiền môn. Tất cả Đại Đình ôm gọn lấy Phương đình tạo thành hình chữ Quốc.

Phương Đình sửa

Hay còn gọi là Đệ Tứ cung. Phương đình được xây theo kiểu chồng diêm tám mái, trên 16 cây cột lớn, đao cong uốn lượn trên nền trời xanh. Là nơi để tế lễ và đặt kiệu trong ngày lễ hội.

Cửa Tiền môn sửa

Cửa chính có ba khoang chỉ mở vào ngày hội, mồng một và ngày rằm, hai cổng phụ hai bên thể hiện ngũ phúc lâm môn. Từ trước chỉ gọi là cửa vì Đền được xây dựng ở vùng biển (nghĩa là biển chỉ có cửa)

Ao sen sửa

Ao sen hình chữ nhật rộng 500 m2 nằm ngay trước cửa Đền. Ao được xây ở điểm huyệt Dương nên chỉ có nước mưa đọng lại.

Giếng Ngọc sửa

Nhà bia sửa

Cây cổ thụ sửa

Bảo vật quốc gia sửa

 Phù điêu Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định công nhận là Bảo vật Quốc gia bởi những giá trị lịch sử, văn hóa và mỹ thuật đặc biệt.

Bức giá tượng (phù điêu) chạm khắc hình tượng đức Lạc Long Quân và nhân vật thời kỳ Hùng Vương đang lưu giữ tại di tích Đền Nội, thuộc làng Bình Đà, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai có niên đại từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

Bức phù điêu có 5 tầng với chiều dài 2,8 mét và rộng 2,2 mét. Khoảng cách 4 tầng dưới bằng nhau, riêng tần trên cùng rộng gấp đôi các tầng dưới. Theo các tài liệu thì bức phù điêu được chạm khác nội dung miêu tả cảnh Lạc Long Quân cùng các quan văn võ xem hội đua thuyền.

Vị trí trung tâm chạm nổi hình tượng đức Quốc tổ Lạc Long Quân cỡ rất lớn (điểm nhấn) trong tư thế ngồi trên ngai. Đầu đội vương miện, mình mặc áo long bào có cân đai. Tay cầm hốt, chân đi hia, ngồi đặt chân trên bệ. Hai bên tả hữu và dưới bức đại tượng này chạm nổi chi tiết 5 hàng người, vật có kích thức nhỏ. Trong đó, tầng thứ nhất trên cùng chạm nổi băng hoa văn cánh hoa cách điệu và hoa văn kỷ hà, tiếp là một dãy nghi trượng, cờ, quạt, tàn, tán, ô, lọng xếp đăng đối 2 bên phần đầu tượng đức Quốc tổ. Liền dưới là hình 18 người phụ nữ chia 2 bên tả hữu (mỗi bên 9 người) trang phục y quan trâm cài đẹp đẽ. Có một bà ngồi sát cánh tay phải đức Quốc tổ với tư thế và y quan khác hẳn. Tầng thứ hai chạm nổi 20 người nam giới (mỗi bên 10 vị) đầu đội mũ cánh chuồn, mặc áo thụng kiểu trang phục của quan lại. Tầng thứ ba chạm nổi hình 16 vị nam (mỗi bên 8 vị) mũ đội kiểu võ quan; tay cầm hốt và long đao. Hai góc tả hữu có hình 02 con hổ cỡ nhỏ. Tầng thứ tư chạm nổi hình 16 người có kích thước nhỏ (mỗi bên 8 vị) mũ áo chưa xác định, cưỡi ngựa và voi, trong đó có 2 người cưỡi voi ở vị trí hai bên góc bức phù điêu thuộc vào hàng thứ 5. Tầng thứ năm chạm nổi 19 người có kích thước nhỏ (bên tả 9, bên hữu 10) cởi trần, đóng khố chít khăn, tư thế đang ngồi và chèo trên 4 chiếc thuyền rồng (mỗi bên 2 chiếc). Giữa hai tầng 4 và 5 là một hình người kích thước lớn, cởi trần, khoác khăn lửng, quần ngắn giống như đóng khố. Hai tay đỡ khay tráp đội trên đầu. Dưới cùng là hoa văn sóng biển. Dưới bệ chân đức Quốc tổ, hai bên đầu của người đội khay tráp là hình hai con Long mã châu đầu vào khay tráp. Bên cạnh là đồ tế khí.

Bố cục bức phù điêu rất hài hòa, hình ảnh được miêu tả qua nét chạm khắc vô cùng tinh xảo, tái hiện sống động cảnh sinh hoạt thời đại Hùng Vương.

Tính trong phạm vi thành phố Hà Nội và các tỉnh phụ cận khu vực phía Bắc thì đây là bức phù điêu duy nhất có nội dung về Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân và các nhân vật thời đại Hùng Vương. Mặc dù đã được tu bổ nhiều lần song bức phù điêu về đức quốc tổ vẫn giữ nguyên vẹn nét cổ xưa tạo nên giá trị lịch sử quý hiếm. Bên cạnh đó giá trị văn hóa của dân tộc, những lệ hội truyền thống cũng được phản ánh rõ nét của bức phù điêu. Những nét chạm trổ tinh xảo và lớp sơn son thiếp vàng vô cùng tinh tế góp phần nâng giá trị thẩm mỹ của bức phù điêu Đức Quốc tổ Lạc Long Quân thành một tác phẩm nghệ thuật vô giá.[4]

Một số cổ vật được tìm thấy sửa

Trống đồng sửa

Gạch có hoa văn xây mộ Quốc tổ sửa

  1. ^ “ĐỀN THỜ TỔ LẠC LONG QUÂN”.
  2. ^ “Lạc Long Quân”.
  3. ^ “Bình Đà”.
  4. ^ “Bảo vật Quốc gia Phù điêu Đức Quốc Tổ Lạc Long Quân”.