Weronika Anna Rosati (phát âm tiếng Ba Lan: [vɛrɔˈɲika ˈrɔsatʲi] ; sinh ngày 9 tháng 1 năm 1984) là một nữ diễn viên người Ba Lan. Cô bắt đầu sự nghiệp diễn xuất từ năm 2000 và được công nhận lần đầu tiên sau khi thủ vai Ania trong bộ phim truyền hình lãng mạn Ba Lan M jak miłość (2002–2005, 2018–2020). Cô tham gia một số phim truyền hình Ba Lan khác trước khi có được vai diễn điện ảnh đầu tiên trong bộ phim hành động đình đám Pitbull của Patryk Vega vào năm 2005. Những bộ phim của cô được giới phê bình đánh giá cao nhất là Obława (2012), mang về cho cô đề cử Giải thưởng Điện ảnh Ba Lan cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất và Never Gonna Snow Again (2020).

Weronika Rosati
Rosati in 2016
SinhWeronika Anna Rosati
9 tháng 1, 1984 (40 tuổi)
Warsaw, Poland
Trường lớpLee Strasberg Theatre and Film Institute
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động2000–present
Con cái1
Cha mẹDariusz Rosati
Teresa Rosati

Rosati bắt đầu sự nghiệp diễn xuất quốc tế của mình với một vai diễn nhỏ không được công nhận trong bộ phim Inland Empire năm 2006 của David Lynch. Kể từ đó, cô đóng thêm nhiều vai nhỏ khác trong các bộ phim nói tiếng Anh bao gồm The Iceman (2012), Bullet to the Head (2012), và USS Indianapolis: Men of Courage (2016) và làm khách mời trên một số chương trình truyền hình. Năm 2012, cô có một vai diễn thường xuyên trong bộ phim truyền hình kịch bản gốc Luck của đài HBO. Còn tại quê hương của mình, cô được đóng vai chính trong các bộ phim điện ảnh như Obce ciało (2014), Porady na zdrady (2017) và trong các phim truyền hình Majka (2009–2010), Czas Honorru (2010), Hotel 52 (2013), Strażacy (2015–2016) và Zawsze warto (2019–2020). Ngoài công việc diễn xuất, Rosati còn là một nhà hoạt động tích cực vì cho các nạn nhân của bạo lực gia đình.

Cuộc đời và sự nghiệp sửa

Thời trẻ sửa

Weronika Anna Rosati sinh ngày 9 tháng 1 năm 1984 tại Warsaw,[1] Cha cô là Dariusz Rosati, một người Ý gốc Ba Lan, ông là giáo sư kinh tế và cựu thành viên Nghị viện Châu Âu. Còn mẹ cô tên là Teresa, một nhà thiết kế thời trang người Ba Lan. Cô có một người anh trai hơn 12 tuổi tên là Marcin.[2] Khi cô hai tuổi, cô cùng gia đình chuyển đến Princeton, New Jersey, nơi cha cô làm giảng viên. Khi lên sáu, gia đình cô tiếp tục chuyển đến Thụy Sĩ sống trong 5 năm, trước khi quay trở lại Ba Lan.[2][3] Việc dành phần lớn thời thơ ấu ở nước ngoài đã giúp cô thông thạo tiếng Anh và tiếng Pháp.[4] Sau khi được xác nhận, cô đã lấy Dolores làm bí tích của mình.[5]

Khi còn là một thiếu niên, Rosati tham gia câu lạc bộ kịch tại Nhà hát Warsaw Ochota và được đào tạo về khiêu vũ và nhào lộn tại Nhà hát Warsaw Studio Buffo.[4][6] Cô theo học tại trường diễn xuất tư nhân Halina và Jan Machulski ở Warsaw.[7] Năm 2003, cô bắt đầu học chuyên ngành diễn xuất tại Trường Điện ảnh Quốc gia ở Łódź. Tuy nhiên, chỉ sau một năm rưỡi, cô tạm dừng việc học để tham gia vào bộ phim M jak miłość và không bao giờ tiếp tục việc học ở đây nữa.[4][7] Ở tuổi 21, cô chuyển đến New York và theo học tại nhiều trường diễn xuất khác nhau, bao gồm Học viện Diễn xuất và Nhà hát Stella Adler, Xưởng phim Larry Moss, và Xưởng phim Ivana Chubbuck.[4][7] Cô cũng tốt nghiệp tại trường Sân khấu và Viện Điện ảnh Lee Strasberg.[8]

Sự nghiệp diễn xuất sửa

 
Rosati năm 2008

Rosati ra mắt khán giả vào năm 2000 với vai "Niki" trong bộ phim truyền hình Ba Lan Klasa na obcasach. Sau đó, cô tham gia với vai trò khách mời rất nhiều trong các tác phẩm truyền hình Ba Lan khác.[1] Vai diễn đầu tiên được công nhận của côg vai Ania trong bộ phim tình cảm Ba Lan M jak miłość (L for Love) vào năm 2002. Cô rời loạt phim vào năm 2005, trước khi quay lại từ năm 2018 cho đến năm 2020.[1][9] Vai diễn điện ảnh đầu tiên của cô là trong bộ phim chính kịch hành động Ba Lan Pitbull sản xuất vào năm 2005 do Patryk Vega đạo diễn. Bộ phim hết sức thành công với giới phê bình và trở thành một hiện tượng đại chúng.[10] Nhờ vai diễn Gemma, người yêu của nhân vật chính (Marcin Dorociński), Rosati đã nhận được hai đề cử Giải Vịt Vàng.[10][11] Cô đã tiếp tục lại vai diễn này trong phiên bản truyền hình từ năm 2005 đến 2008.[12]

Rosati bắt đầu sự nghiệp quốc tế của mình với một vai diễn nhỏ không được ghi nhận trong bộ phim Inland Empire năm 2006 của David Lynch.[13] Sau đó, cô xuất hiện trong vai Bà Lawdale trong bộ phim kinh dị House năm 2008, một bộ phim thất bại thảm hại trong mắtgiới phê bình, với điểm số phê duyệt 0% trên chuyên trang tổng hợp phê bình Rotten Tomatoes.[14] Năm 2009, cô tham gia vào dàn diễn viên chính của bộ phim chuyển thể Ba Lan của vở opera Jane the Virgin của Venezuela có tựa đề Majka, trong đó cô vào vai nhân vật Dagmara từ năm 2009 đến năm 2010.[1][15] Năm 2010, cô đóng vai Rojza, một trong những cô gái làm việc tại xưởng lông thú ở Warsaw Ghetto, bị khủng bố bởi lính canh của Đức Quốc xã "Mongoł", trong mùa thứ ba của loạt phim truyền hình Czas Honorru (Những ngày của Danh dự) của Ba Lan về Chiến tranh Thế giới thứ hai.[1][16] Năm 2011, cô đóng vai kẻ giết người hàng loạt Magdalena trong bộ phim truyền hình kinh dị 2011 Dame de pique (Dame of Spades) của đài France 2, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Alexis Lecaye, được tờ Le Monde của Pháp đánh giá tốt.[17] Cô cũng đóng vai một nhà báo tên Anna trong bộ phim giật gân năm 2011 Largo Winch II,[18]vào vai khách mời trong bộ phim truyền hình được đề cử giải Oscar, In Darkness của Agnieszka Holland.[19] Vào năm 2012, Rosati được đóng một vai diễn thường xuyên là tay chơi poker Naomi trong bộ phim truyền hình gốc của HBOLuck.[20] Cũng trong năm này, cô còn đóng vai "Pestka", một cô gái đang cố gắng cứu em gái mình khỏi cái chết, trong Obława (Săn người), một bộ phim giật gân chiến tranh Ba Lan do Marcin Krzyształowicz làm đạo diễn.[21] Bộ phim này đã giúp Rosati nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình[22] và có một đề cử cho Giải thưởng của Viện Hàn lâm Ba Lan cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất.[23] Rosati cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn trong các bộ phim của Mỹ trong năm đó. Cô đóng vai Livi trong bộ phim tiểu sử The Iceman, Irena trong bộ phim hài tội phạm Stand Up Guys và Lola trong bộ phim hành động Bullet to the Head.[1]

 
Rosati tại lễ trao Giải thưởng Điện ảnh Ba Lan năm 2017

Các phim tham gia sửa

  Đánh dấu các phim chưa được phát hành
Năm Tựa đề Vai diễn Đạo diễn Ghi chú
2005 Pitbull[1] Gemma Patryk Vega Đề cử—Gịải Vịt vàng năm 2011 cho Người tình Màn ảnh xuất sắc nhất[11] Đề cử—Giải Vịt vàng năm 2012 cho Diễn viên nữ Xuất sắc nhất trong phim Hành động của Ba Lan
2006 Inland Empire[13] Courtesan David Lynch Không được ghi nhận
2006 Bezmiar sprawiedliwości[24] (Immensity of Justice) Cô gái Protocole Wiesław Saniewski
2007 Lynch[25] Người phụ nữ trong nhà máy Phim tài liệu
2008 Senność[1] (Drowsiness) Người thực hành Magdalena Piekorz
2008 House[14] Bà Lawdale Robby Henson
2009 Smutna[1] (The Sad One) Anna Piotr Matwiejczyk
2010 Piotrek the 13th[1] Angelina Piotr Matwiejczyk Cũng là đồng sản xuất
2011 Largo Winch II[18] Anna Jérôme Salle
2011 Wojna żeńsko-męska[1] (Battle of the Sexes) "Suka" Łukasz Palkowski Lồng tiếng
2011 In Darkness[1] Người phụ nữ trẻ có con Agnieszka Holland
2012 Obława[1] (Manhunt) "Pestka" Marcin Krzyształowicz Đề cử—Giải thưởng của Viện hàn lâm Ba Lan cho nữ diễn viên xuất sắc nhất[23]
2012 Iceman, TheThe Iceman[1] Livi Ariel Vromen
2012 Stand Up Guys[1] Irena Fisher Stevens
2012 Bullet to the Head[1] Lola Walter Hill
2013 Planes[26] Dottie Wojciech Paszkowski Lồng tiếng; phiên bản tiếng Ba Lan
2013 Battle of the Year[27] Jolene Benson Lee
2013 Last Vegas[28] Veronica Jon Turteltaub
2014 The Nut Job[29] Ilona[a] Dariusz Dunowski Lồng tiếng; phiên bản tiếng Ba Lan
2014 Planes: Fire & Rescue[30] Dottie Wojciech Paszkowski Lồng tiếng; phiên bản tiếng Ba Lan
2014 Obce ciało[1] (Foreign Body) Mira Tkacz Krzysztof Zanussi Đề—Giải Rắn năm 2015 cho Cặp đôi Màn ảnh Tệ nhất Worst On-Screen Duet (with Agnieszka Grochowska)[31]
2016 New Adventures of Aladdin, TheThe New Adventures of Aladdin[32] Shallia Agnieszka Matysiak Lồng tiếng; phiên bản tiếng Ba Lan
2016 USS Indianapolis: Men of Courage[1] Louise McVay Mario Van Peebles
2017 Porady na zdrady[1] (Tips for Cheating) Beata Woltyńska Ryszard Zatorski Đề cử—Giải Rắn năm 2018 cho Nữ Diễn viên Tệ nhất[33]
2017 Frost[34] Šarūnas Bartas Không được ghi nhận
2018 Podatek od miłości[1] (Taxing Love) Vợ của Ryszard Bartłomiej Ignaciuk
2019 I'll Find You[1] Bà Huber Martha Coolidge
2020 Never Gonna Snow Again[1] Wika / Zhenia's mother Małgorzata Szumowska

Michał Englert
2021 Send It![35] Eve Andrew Stevens Direct-to-digital
2021 Brigitte Bardot cudowna[1] (Brigitte Bardot Forever) Liz Taylor Lech Majewski
2022 It's Not Over[36]   Sarah Alessandro Riccardi
TBA Object Permanence   Filip Jan Rymsza Quay phim

Phim truyền hình sửa

Năm Tựa đề Vai diễn Ghi chú
2000 Klasa na obcasach[1] "Niki"
2001 Marzenia do spełnienia[1] Weronika Vai diễn thường xuyên
2002–2005,
2018–2020
M jak miłość[1] (L for Love) Anna "Ania" Waszkiewicz Vai diễn thường xuyên
2002–2003 Samo Życie[1] Beata "Ujma" 10 tập
2002 As[1] Matylda Roszak Tập: "Piotr i Ania" ("Peter và Anne")
2003 Czego się boją faceci, czyli seks w mniejszym mieście[1] Dominika 4 tập
2003–2004 Tak czy nie?[1] (Có hay Không?) Basia Barniłowska
2005–2008 Pitbull[1] Gemma Vai diễn thường xuyên
2007 Kryminalni[1] (Crime Detectives) Ania Lis Tập: "Dziewczyna z okładki" ("Covergirl")
2008 Ranking gwiazd[37] (Ranking the Stars) Chính mình Người tham gia chương trình
2008 Daleko od noszy[1] (Off the Stretcher) Genowefa Basen sau phẫu thuật thẩm mỹ Tập: "Niespodzianka na urodziny" ("Birthday Surprise")
2008 Londyńczycy[1] (Londoners) Weronika Fox 3 episodes
2009 39 i pół[1] (39 and a Half) Ola 2 tập
2009 Taniec z gwiazdami[38] (Khiêu vũ với những Vì sao) Chính mình Thí sinh mùa 10
2009–2010 Majka[1] Dagmara Godzwon Vai diễn thường xuyên
2010 Czas honoru[1] (Days of Honor) Rojza Mùa 3, 7 tập
2011 Dame de pique[1] (Dame of Spades) Magdalena Phim truyền hình
2011 Bezmiar sprawiedliwości[39] (Immensity of Justice) Cô gái protocole
2012 Luck[1] Naomi Vai diễn thường xuyên; 4 tập
2012–2014 Piąty Stadion[1] (Sân vận động thứ năm) Julie / Gabriela Kądzik Vai diễn thường xuyên; 26 tập
2012 Ojciec Mateusz[1] (Cha Matthew) Marzena Kryger Tập: "Czarna wdowa" ("Black Widow")
2013 Spokojnie, to tylko ekonomia![1] Herself Người dự thi; 2 tập
2013 NCIS[1] Rivka David Tập: "Berlin"
2013 Hotel 52[1] Maria Jordan Mùa 7
2014 Rosemary's Baby[1] Ginger Tập: "Night One"
2015–2016 Strażacy[1] (Firefighters) Kamila Miłek Series regular
2015 Project Runway Poland[40] Herself Giám khảo khách mời; 1 tập
2015 True Law[1] Kamila Braun 1 tập
2015 True Detective[1] Agnes Mùa 2, 2 tập
2016 Supernatural[1] Delphine Seydoux Tập: "The Vessel"
2016 Powiedz tak![1] (Say Yes!) Sandra 3 tập
2016 The Detour[1] Oksana Mùa 1, 2 tập
2017 Belle Epoque[1] Misia Antczak 4 tập
2017 Komisarz Alex[1] (Inspector Alex) Maja von Hertzenbach-Przybysz 1 tập
2017 Ultraviolet[1] "Limbo" 1 tập
2017–2019 Chẩn đoán[1] Beata Leśniewska Vai diễn thường xuyên
2018 SNL Poland[41] Herself Guest host; 1 episode
2019 Echo serca[1] Renata 1 episode
2019–2020 Zawsze warto[1] Marta Kulesza Vai chính
2021 NCIS: Los Angeles[1] Vanya Leonova Mùa 12, 2 tập

Trò chơi điện tử sửa

Năm Tựa game Nhân vật Ghi chú
2021 The Medium[42] Marianne

Ghi chú sửa

  1. ^ Trong phiên bản gốc, tên của nhân vật là Lana.

Tham khảo sửa

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p q r s t u v w x y z aa ab ac ad ae af ag ah ai aj ak al am an ao ap aq ar as at au av aw ax ay az ba bb bc bd be bf “Weronika Rosati” (bằng tiếng Ba Lan). Polish Internet Movie Database. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2020."Weronika Rosati" (in Polish). Polish Internet Movie Database. Truy cập 18 October 2020.
  2. ^ a b Kotowska, Monika (ngày 19 tháng 6 năm 2009). “Toksyczna miłość Teresy i Weroniki Rosati” (bằng tiếng Ba Lan). Polki.pl. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 10 năm 2020.
  3. ^ Łazarz, Joanna (ngày 24 tháng 10 năm 2010). “Stawiam na siebie” (bằng tiếng Ba Lan). Interia. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2020.
  4. ^ a b c d “Współpraca z Weroniką Rosati” (bằng tiếng Ba Lan). Agencja Aqua-PR. ngày 15 tháng 6 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2016. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “aqua” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  5. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên gala
  6. ^ Bejca, Anna (ngày 3 tháng 9 năm 2008). “Podwójne życie Weroniki Rosati” (bằng tiếng Ba Lan). Polki.pl. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 4 năm 2016.
  7. ^ a b c Śnieg-Czaplewska, Liliana (ngày 23 tháng 4 năm 2010). “Weronika Rosati – Dziewczyna grzechu warta” (bằng tiếng Ba Lan). Polki.pl. tr. 2. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2010.
  8. ^ “Kamila (Weronika Rosati)” (bằng tiếng Ba Lan). TVP. ngày 28 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2016.
  9. ^ “Weronika Rosati na planie "M jak miłość" (bằng tiếng Ba Lan). Onet.pl. ngày 11 tháng 9 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 10 năm 2018.
  10. ^ a b "Pitbull": Tym filmed Patryk Vega rozpoczynał karierę” (bằng tiếng Ba Lan). Interia. ngày 8 tháng 4 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2020.
  11. ^ a b “Cztery Złote Kaczki dla filmu "Sala samobójców" (bằng tiếng Ba Lan). TVP. ngày 22 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  12. ^ “Pitbull” (bằng tiếng Ba Lan). Polish Internet Movie Database. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2020.
  13. ^ a b “Weronika Rosati wystąpiła u Davida Lyncha” (bằng tiếng Ba Lan). Wirtualne Media. ngày 24 tháng 1 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2016."Weronika Rosati wystąpiła u Davida Lyncha" (in Polish). Wirtualne Media. ngày 24 tháng 1 năm 2006. Archived from the original on ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập 11 April 2016.
  14. ^ a b “House (2008)”. Rotten Tomatoes. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “house” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  15. ^ "Po prostu Majka" następczynią "Brzyduli" w TVN-ie” (bằng tiếng Ba Lan). Wirtualne Media. ngày 16 tháng 6 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  16. ^ “Czy pamiętacie, że...” (bằng tiếng Ba Lan). TVP. ngày 8 tháng 2 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2016.
  17. ^ Venault, Philippe (ngày 14 tháng 1 năm 2011). “Dame de pique”. Le Monde (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2020.
  18. ^ a b “Spisek” (bằng tiếng Ba Lan). Canal+ Poland. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2018. Lỗi chú thích: Thẻ <ref> không hợp lệ: tên “largo winch II” được định rõ nhiều lần, mỗi lần có nội dung khác
  19. ^ “W ciemności” (bằng tiếng Ba Lan). Polish Internet Movie Database. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 18 tháng 5 năm 2018.
  20. ^ Urbańska, Gabriela (ngày 21 tháng 12 năm 2011). “Weronika Rosati w megaprodukcji Michaela Manna” (bằng tiếng Ba Lan). Polish Filmmakers Association. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  21. ^ “Rosati, Stuhr i Dorociński w "Obławie" (bằng tiếng Ba Lan). Interia. ngày 28 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2016.
  22. ^ "Jesteś Bogiem", "Obława" czy "W ciemności"?” (bằng tiếng Ba Lan). Interia. ngày 11 tháng 5 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2020.

    Hollender, Barbara (ngày 16 tháng 10 năm 2012). “Obława Marcina Krzyształowicza – recenzja filmu”. Rzeczpospolita (bằng tiếng Ba Lan). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  23. ^ a b “Orły 2013: Nominacje ogłoszone!” (bằng tiếng Ba Lan). Interia. ngày 7 tháng 2 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  24. ^ “Bezmiar sprawiedliwości” (bằng tiếng Ba Lan). Polish Internet Movie Database. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2020.
  25. ^ “Lynch Details and Credits”. Metacritic. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2020.
  26. ^ “Weronika Rosati w dubbingu "Samolotów" (bằng tiếng Ba Lan). Interia. ngày 7 tháng 8 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2018.
  27. ^ “Battle of the Year Details and Credits”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2020.
  28. ^ “Last Vegas Details and Credits”. Metacritic. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2020.
  29. ^ “Weronika Rosati w "Gangu Wiewióra" (bằng tiếng Ba Lan). Interia. ngày 2 tháng 4 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2020.
  30. ^ "Samoloty 2": nowe fragmenty filmu” (bằng tiếng Ba Lan). Onet.pl. ngày 27 tháng 6 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2020.
  31. ^ “Węże 2015: oto lista nominowanych” (bằng tiếng Ba Lan). Onet.pl. ngày 4 tháng 3 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2018.
  32. ^ "Nowe przygody Aladyna": Weronika Rosati księżniczką”. Wirtualna Polska. ngày 27 tháng 7 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2016.
  33. ^ "PolandJa" i "Botoks" – najgorsze polskie filmy, czyli nominacje do Węży 2018” (bằng tiếng Ba Lan). Wirtualne Media. ngày 7 tháng 3 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2018.
  34. ^ "Szron": Polska koprodukcja na festiwalu w Cannes” (bằng tiếng Ba Lan). Interia. ngày 20 tháng 4 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2017.
  35. ^ Pyrko, Małgorzata (ngày 27 tháng 8 năm 2018). “Weronika Rosati: Pracuję i żyję w Polsce” (bằng tiếng Ba Lan). Interia. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2021.
  36. ^ “Christopher Lambert in versione dark da "L'ombra del lupo" al futuro "It's not over". Il Messaggero (bằng tiếng Ý). ngày 23 tháng 3 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2021.
  37. ^ “Jesień w Polsacie” (bằng tiếng Ba Lan). Stopklatka.pl. ngày 12 tháng 8 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2018.
  38. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên tzg
  39. ^ “Bezmiar sprawiedliwości”. Polish Internet Movie Database. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2020.
  40. ^ “Project Runway: relacja z odcinka 9 – ubrania dla najbliższych”. Glamour (bằng tiếng Ba Lan). ngày 30 tháng 4 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2018.
  41. ^ “Weronika Rosati w finale pierwszego sezonu SNL Polska” (bằng tiếng Ba Lan). Interia. ngày 19 tháng 3 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2018.
  42. ^ Bayliss, Ben (22 tháng 1 năm 2021). “The Medium Has 9 Uncanny Facts That Bloober Team Wants You to Know”. DualShockers. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2021. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2021.

Liên kết ngoài sửa