Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Lara Fabian”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Thẻ: Sửa đổi di động Sửa đổi từ trang di động Sửa đổi di động nâng cao
n clean, replaced: và và → và (2), " → " (43), " → " (110)
Dòng 14:
|website = {{URL|larafabian.com/}}
}}
'''Lara Fabian''', tên thật là '''Lara Sophi Katy Crokaert '''(sinh ngày 9 tháng 1 năm 1970), là một nữ [[ca sĩ kiêm sáng tác nhạc]] người [[Bỉ]]-[[Canada]]. Cô sinh ra ở [[Etterbeek]], [[Bruxelles]] và có cha là một [[Bỉ|người Bỉ]], còn mẹ là một [[Sicilia|người Silicia]]. Được học tại [[:en:Royal Conservatory of Brussels|Nhạc viện Hoàng gia Bruxelles của Bỉ]] từ năm 8 tuổi, Fabian bắt đầu được khán giả biết đến khi cô tham gia cuộc thi [[Eurovision Song Contest 1988|Eurovision Song Contest lần thứ 33]] vào năm 1988. Cùng hợp tác với nhà sản xuất âm nhạc [[Rick Allison]], cô bước chân vào thị trường âm nhạc Canada với ''[[Lara Fabian (album năm 1991)|album đầu tay cùng tên]]'' phát hành năm 1991 và album ''[[Carpe diem (album của Lara Fabian)|Carpe diem]]'' (1994). Với ''[[Pure (album của Lara Fabian)|Pure]]'' (1996), Fabian đạt được thành công lớn tại [[Pháp]] và [[châu Âu]] khi album bán ra 2 triệu bản trên toàn châu lục, nhận được chứng nhận Kim cương từ [[SNEP]] của Pháp và trở thành một trong số những album bán chạy nhất mọi thời đại ở quốc gia này. Album cũng sản sinh ra năm đĩa đơn hit gồm "[[Tout (bài hát)|Tout]]", "[[Je t'aime (bài hát)|Je t'aime]]", "Humana", "[[Si tu m'aimes]]" "[[La Différence]]", trong đó hai đĩa đơn đầu tiên lọt vào [[Top 100 đĩa đơn thập niên 1990 (Pháp)|danh sách đĩa đơn bán chạy nhất trong thập niên 90 tại Pháp]].
 
Kể từ năm 1999, với việc phát hành album trực tiếp ''[[Live 1999 (album của Lara Fabian)|Live 1999]]'' và album tiếng Anh đầu tiên ''[[Lara Fabian (album năm 2000)|Lara Fabian]]'', Fabian liên tiếp giành được vị trí quán quân trên bảng xếp hạng album của Pháp và [[Bỉ]], bắt đầu hoạt động âm nhạc ở cả hai thị trường Bắc Mỹ và châu Âu, cũng như mở rộng ảnh hưởng đến khu vực Mỹ La-tinh. Tuy nhiên, cô chủ yếu chỉ đạt được thành công tại các quốc gia nói [[tiếng Pháp]] với các album ''[[Nue (album)|Nue]]'' (2001), ''[[9 (album của Lara Fabian)|9]]'' (2005), ''[[Toutes les femmes en moi]]'' (2009) và một loạt những buổi hòa nhạc trực tiếp được thu âm thành các [[album trực tiếp]] như ''[[Live 2002 (album của Lara Fabian)|Live 2002]]'' và ''[[En Toute Intimité]]'' (2003). Thông qua việc hợp tác với nhạc sĩ [[Igor Krutoy]] vào năm 2009, Fabian mở rộng thành công của mình sang thị trường [[Nga]] với album đa ngôn ngữ ''[[Mademoiselle Zhivago]]'' (2010). Cô tiếp tục đạt được thành công ở thị trường quê nhà và ở Pháp trong nửa đầu của thập niên 2010 với album quán quân thứ ba ''[[Le Secret (album)|Le Secret]]'' (2013) và album ''[[Ma vie dans la tienne]]'' (2015).
 
Trong hơn 30 năm sự nghiệp, Fabian đã bán được 13 triệu bản thu âm trên toàn cầu,<ref name=malade>[http://www.leparisien.fr/loisirs-et-spectacles/malade-lara-fabian-annule-la-fin-de-sa-tournee-ngày 20-01- tháng 1 năm 2014-3512527.php "Malade, Lara Fabian annule sa tournée"]. ngày 20 tháng 1 năm 2014.</ref><ref name=legras>Legras, Sophie (ngày 20 tháng 1 năm 2014). [http://www.lefigaro.fr/musique/2014/01/20/03006-20140120ARTFIG00605-lara-fabian-annule-finalement-sa-tournee.php "Lara Fabian annule finalement sa tournée"] &ndash; via Le Figaro.</ref><ref>[http://www.rtl.be/belrtl/showcase-exclusif-de-lara-fabian/266.aspx "Showcase exclusif de Lara Fabian"]. ''Bel RTL''.</ref> giành được 5 [[giải Félix]], 1 giải [[Victoires de la Musique]], 2 giải [[World Music Awards]] cho nghệ sĩ khu vực [[Benelux]] bán đĩa chạy nhất năm và là một trong số những [[Danh sách nghệ sĩ âm nhạc người Bỉ bán đĩa chạy nhất|nghệ sĩ người Bỉ bán đĩa chạy nhất]] mọi thời đại. Vào năm 2017, cô được [[:en:Walloon Government|Chính quyền của vùng Wallonie, Bỉ]] trao [[:fr:Mérite wallon#Lauréats 2017|Huân chương danh dự cấp bậc Chỉ huy]] ở lĩnh vực Âm nhạc. Cô sở hữu cả hai quốc tịch Canada và Bỉ kể từ năm 1995.<ref name=CanEncyclo>{{Chú thích web|tên 1=Richard|họ 1=Haskell|tiêu đề=Lara Fabian|url=http://www.thecanadianencyclopedia.ca/en/article/lara-fabian-emc/|ngày tháng=22 tháng 3 năm 2009|ngày truy cập=27 tháng 10 năm 2017|nhà xuất bản=The Canadian Encyclopedia}}</ref>
 
==Thơ ấu==
Dòng 30:
===1986–1993: Buổi đầu sự nghiệp===
{{See also|Lara Fabian (album năm 1991)}}
Trong những năm 1980, Fabian tham dự nhiều cuộc thi âm nhạc tại châu Âu và giành được một số giải thưởng. Cô phát hành đĩa đơn đầu tay, "L'Aziza est en pleurs" / "Il y avait" vào năm 1986. Cả hai bài hát đều được sáng tác bởi nhà soạn nhạc người Bỉ Marc Lerchs để thể hiện lòng thành kính với [[Daniel Balavoine]].
 
Năm 1988, [[RTL Télé Lëtzebuerg|kênh truyền hình RTL]] ở [[Luxembourg]] mời Fabian đại diện cho quốc gia này trong cuộc thi [[Eurovision Song Contest 1988|Eurovision Song Contest lần thứ 33]], tổ chức cùng năm tại [[Dublin]], Ireland. Ca khúc tham dự chung kết của cô là một sáng tác của Jacques Cardona và Alain Garcia, với tựa đề "[[Croire]]" (Niềm tin). Ca khúc giúp cô đạt vị trí thứ 4 chung cuộc, trong khi [[Celine Dion]], đại diện cho [[Thụy Sĩ]], đã giành chiến thắng cuộc thi. Đĩa đơn trở thành một hit ở châu Âu, bán được gần 500.000 bản.
{{Citation needed|date=tháng 2 năm 2012}}
 
Năm 1990, Fabian và cộng tác âm nhạc [[Rick Allison]] chuyển đến [[Montréal]], Canada với mục tiêu phát triển sự nghiệp ở thị trường Bắc Mỹ.<ref name="Keillor2008">{{chú thích sách|author=Elaine Keillor|title=Music in Canada: Capturing Landscape and Diversity|url=https://books.google.com/books?id=P4rf9W02vv0C&pg=PT296|date=ngày 18 tháng 3 năm 2008|publisher=McGill-Queen's Press - MQUP|isbn=978-0-7735-3391-2|pages=296–}}</ref> Họ thành lập nhãn hiệu âm nhạc và công ty sản xuất riêng, Productions Clandestines.
 
Tháng 8 năm 1991, album đầu tay cùng tên trình bày bằng tiếng Pháp của cô, ''[[Lara Fabian (album năm 1991)|Lara Fabian]]'', phát hành tại Canada và bán được hơn 100.000 bản trong 3 năm. Album được chứng nhận vàng vào năm 1993, và bạch kim ngay năm tiếp theo. Thành công của các đĩa đơn [[Dance-pop]] sôi động như "Le jour où tu partiras", "Les murs", và "Qui pense à l'amour" giúp cho Fabian được quảng bá rộng rãi trên hệ thông phát thanh. Cô nhận được một vài đề cử tại lễ trao giải ADISQ năm 1993, và được bình chọn là ca sĩ hứa hẹn nhất của Québec.
 
===1994–1996: Album đột phá: ''Carpe diem''===
{{See also|Carpe diem (album của Lara Fabian)}}
Các chuyến lưu diễn liên tục tại [[Québec]] đã giúp cho album phát hành năm 1994 của Fabian, ''[[Carpe diem (album của Lara Fabian)|Carpe diem]]'', trở thành một bước đột phá trong sự nghiệp của cô. Album nhanh chóng nhận được chứng nhận Vàng chỉ sau 2 tuần từ ngày phát hành,<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Fabian - Biography - RFI Music|url=http://www.rfimusic.com/artist/chanson/lara-fabian/biography.html|website=rfimusic.com|nhà xuất bản=RFI Musique|ngày truy cập=2017-10-27}}</ref> và sản sinh ra 3 đĩa đơn hit: "Tu t'en vas", "Si tu m'aimes", và "Leïla". Năm sau, album đã được chứng nhận 3× Bạch kim.
 
Fabian nhận được 2 giải [[Giải Félix|Félix]] tại gala ADISQ năm 1995: Trình diễn tốt nhất của năm và Nữ nghệ sĩ của năm (hạng mục được khán giả bình chọn).
 
Năm 1996, [[Danh sách công ty sở hữu bởi Disney#Công ty giải trí|Walt Disney Studios]] thuê Fabian lồng tiếng cho nhân vật Esmeralda trong phiên bản tiếng Pháp của bộ phim hoạt hình ''[[The Hunchback of Notre Dame (phim 1996)|Thằng gù nhà thờ Đức Bà]]''.<ref>{{chú thích tạp chí|last1=LeBlanc|first1=Larry|author-link=Larry LeBlanc|title=Disney Label Builds On Its Strength|journal=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]|date = ngày 14 tháng 12 năm 1996 |volume=108|issue=50|page=40|url=https://books.google.com.vn/books?id=tQkEAAAAMBAJ&pg=PA40&lpg=PA40&dq=lara+fabian+billboard+14+december+1996+quebec+based&source=bl&ots=H0LiY8H0Q8&sig=ACfU3U3wS-mQpJG4hwSFXZXWnk5FbGHtXQ&hl=vi&sa=X&ved=2ahUKEwjum-Xl4JLoAhWWBIgKHbOWDY8Q6AEwAHoECAoQAQ#v=onepage&q=lara%20fabian%20billboard%2014%20december%201996%20quebec%20based&f=false|accessdate = ngày 11 tháng 3 năm 2020 |publisher=Nielsen Business Media, Inc.|location=[[Toronto]], [[Canada]]|language=tiếng Anh|issn=0006-2510}}</ref> Fabian cũng thể hiện bài hát "Que Dieu aide les exclus", phiên bản tiếng Pháp của ca khúc "[[God Help the Outcasts]]", trong album nhạc phim bản tiếng Anh và tiếng Pháp của bộ phim. Tại Québec, bài hát được phát hành thành đĩa đơn từ album nhạc phim vào cuối mùa hè năm 1996. Video âm nhạc của "Que Dieu aide les exclus" được ghi hình vào đầu tháng 7 năm 1996 tại nhà thờ [[Notre-Dame Basilica (Montreal)|Notre-Dame Basilica]] ở Montréal.<ref>{{chú thích tạp chí|last1=LeBlanc|first1=Larry|author-link=Larry LeBlanc|title=Lara Fabian Frenchifies 'Hunchback'|journal=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]|date = ngày 13 tháng 7 năm 1996 |volume=108|issue=28|page=56|url=https://books.google.com.vn/books?id=ogkEAAAAMBAJ&pg=PA56&lpg=PA56&dq=lara+fabian+frenchifies+hunchback&source=bl&ots=OrJ-B2jc0u&sig=ACfU3U22mOLMIhS3TCogrwveF8ov35QyoQ&hl=vi&sa=X&ved=2ahUKEwjc0oaL5pLoAhXEw4sBHbSNBTMQ6AEwAHoECAUQAQ#v=onepage&q=lara%20fabian%20frenchifies%20hunchback&f=false|accessdate = ngày 11 tháng 3 năm 2020 |publisher=Nielsen Business Media, Inc.|location=[[Toronto]], [[Canada]]|language=tiếng Anh|issn=0006-2510}}</ref>
 
Từ năm 1995, Fabian sở hữu thêm quốc tịch Canada.<ref name="CanEncyclo"/>
Dòng 51:
===1997–1999: Thành công toàn cầu: ''Pure'' và ''Live 1999''===
{{See also|Pure (album của Lara Fabian)|Live 1999 (album của Lara Fabian)}}
Sau thành công của ''Carpe diem'', Fabian kí hợp đồng với hãng thu âm [[Polydor Records|Polydor]] của Pháp để phát hành một số album mới. ''[[Pure (album của Lara Fabian)|Pure]]'' được phát hành vào tháng 10 năm 1996 tại Canada. Album nhận được chứng nhận Bạch kim từ [[Music Canada]] cho doanh số đạt 100.000 bản chỉ sau vài tuần phát hành. Đầu tháng 1 năm 1997, tạp chí ''[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]'' dự báo Fabian là một trong số những nghệ sĩ người Canada có khả năng cao sẽ đạt được thành công thương mại trên toàn cầu.<ref>{{chú thích tạp chí|last1=LeBlanc|first1=Larry|author-link=Larry LeBlanc|title=Canada Border Crossings - Most Likely to Succeed|journal=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]|date = ngày 18 tháng 1 năm 1997 |volume=109|issue=3|page=50|url=https://books.google.com.vn/books?id=IA8EAAAAMBAJ&pg=PA50&lpg=PA50&dq=lara+fabian+canada+border+crossings+billboard&source=bl&ots=LN4oAMhQnW&sig=ACfU3U31Y_M7HIv7o2HDV7DqLLJybfQtDg&hl=vi&sa=X&ved=2ahUKEwi_qpCG6pLoAhWBF4gKHbDmBXkQ6AEwAXoECAgQAQ#v=onepage&q=lara%20fabian%20canada%20border%20crossings%20billboard&f=false|accessdate = ngày 11 tháng 3 năm 2020 |publisher=Nielsen Business Media, Inc.|language=tiếng Anh|issn=0006-2510}}</ref> Tháng 6 năm 1997, Fabian phát hành ''Pure'' tại Pháp. Album đã bán ra gần 2 triệu bản tại quốc gia này tính đến cuối năm 2015<ref>{{Chú thích web|tác giả 1=MJD|tiêu đề=France best selling albums ever: Pure by Lara Fabian (1996)|url=http://chartmasters.org/2016/02/france-best-selling-albums-ever-pure-by-lara-fabian-1996/|website=chartmasters.org|nhà xuất bản=Chart Masters|ngày truy cập=2017-10-27}}</ref> và nhận được chứng nhận Bạch kim từ [[SNEP]] chỉ sau hai tuần phát hành. ''Pure'' cũng sản sinh ra năm đĩa đơn hit gồm: "[[Tout (bài hát)|Tout]]", "[[Je t'aime (bài hát)|Je t'aime]]", "Humana", "[[Si tu m'aimes]]" và bản quốc ca chống [[Ghê sợ đồng tính luyến ái|kì thị đồng tính luyến ái]] "[[La Différence]]". Album thắng một [[giải Félix]] cho Album nhạc đại chúng của năm tại gala [[ADISQ]] năm 1997. Tại lễ trao [[giải Juno]] cùng năm, album được đề cử ở hạng mục Album tiếng Pháp bán chạy nhất, còn Fabian nhận được đề cử cho hạng mục Nữ ca sĩ xuất sắc nhất.
 
Tháng 2 năm 1998, Fabian nhận giải thưởng Phát hiện của năm tại gala [[Victoires de la Musique]]. Cũng trong năm 1998, Polydor phát hành ''[[Carpe diem (album của Lara Fabian)|Carpe diem]]'' tại châu Âu. Tháng 11 năm 1998, cô tiếp tục nhận giải Félix ở hạng mục Nghệ sĩ ngoài Quebec được công nhận nhiều nhất. Tháng 12 cùng năm, cô được tạp chí [[Paris Match]] tặng danh hiệu Khải huyền của năm, và hình ảnh của cô được đưa lên trang bìa của tạp chí này.
Dòng 61:
Mùa hè năm 1999, Fabian ghi âm album tiếng Anh đầu tiên của cô cho hãng Sony, ''[[Lara Fabian (album năm 2000)|Lara Fabian]]'', tại New York và San Francisco. Các bài hát được viết và sản xuất bởi [[Rick Allison]] và Dave Pickell, [[Walter Afanasieff]], [[Glen Ballard]] và [[Patrick Leonard]].
 
Album ra mắt ở vị trí quán quân bảng xếp hạng US ''Billboard'' Heatseekers, đạt đến vị trí thứ nhất trên bảng xếp hạng album của Pháp và thứ hai trên bảng xếp hạng album của Bỉ. Ở phiên bản phát hành tại châu Á, Fabian hợp tác với ngôi sao nhạc pop người Mỹ-Đài Loan [[Leehom Wang]] trong bài hát "Light of My Life".
 
Bản [[dance-pop]] "[[I Will Love Again]]", đĩa đơn tiếng Anh đầu tiên của cô, giành vị trí quán quân bảng xếp hạng US ''Billboard'' [[Hot Dance Music/Club Play]], và đạt đến vị trí thứ 32 trên bảng xếp hạng [[Billboard Hot 100|US ''Billboard'' Hot 100]], thứ 10 trên US ''Billboard'' [[Adult Contemporary]], cũng như xuất hiện trên một số bảng xếp hạng toàn cầu, trong đó có bảng xếp hạng [[UK Singles Chart]]. Ca khúc đạt vị trí thứ 63 trên bảng xếp hạng này.<ref name="British Hit Singles & Albums">{{chú thích sách
| first= David
| last= Roberts
Dòng 72:
| location= London
| isbn= 1-904994-10-5
| page= 192}}</ref> Bản ballad nối tiếp, "[[Love by Grace]]", cũng đạt được vị trí thứ 24 trên bảng xếp hạng US ''Billboard'' [[Adult Contemporary]]. Tháng 2 năm 2001, "Love By Grace" trở thành ca khúc chủ đề của cặp đôi chính trong vở kịch về cuộc sống đời thường, ''[[Laços de Família]]'' của Brazil, được truyền hình bởi TV Globo ở Brazil và Bồ Đào Nha. Trong vài tuần, ca khúc giữ vị trí quán quân trên hầu hết các trạm phát thanh ở Brazil và Bồ Đào Nha. Đĩa đơn thứ ba, ca khúc [[dance-pop]] "I Am Who I Am", phối lại bởi [[Hex Hector]], không xuất hiện trên các bảng xếp hạng. Ở châu Âu, đĩa đơn "Adagio" đạt vị trí thứ 5 trên bảng xếp hạng đĩa đơn của Pháp, và thứ 3 trên bảng xếp hạng đĩa đơn của Bỉ.
 
Trong giai đoạn này, Fabian đã ghi âm một số ca khúc làm nhạc phim cho các bộ phim điện ảnh của Hollywood, bao gồm: "The Dream Within" cho nhạc phim của ''[[Final Fantasy: The Spirits Within]]'', và "For Always" cho nhạc phim ''[[A.I. Artificial Intelligence|A.I. Trí tuệ nhân tạo]]''. Album nhạc phim thứ hai gồm cả phiên bản hát đơn và phiên bản song ca với [[Josh Groban]] của "For Always".
 
===2001–2004: Trở lại Pháp: ''Nue'', ''Live 2002'', ''En toute intimité'' và ''A Wonderful Life''===
{{See also|Nue (album)|Live 2002 (album của Lara Fabian)|En Toute Intimité|A Wonderful Life (album)}}
''[[Nue (album)|Nue]]'' (tạm dịch: ''Trần trụi''), album tiếng Pháp thứ tư của Fabian, phát hành vào mùa thu năm 2001 ở cả Quebec và Pháp. Album như một bản ghi chép lại những thăng trầm cảm xúc trong những năm sau thành công của album trước đó. Album lần lượt đạt vị trí quán quân và á quân trên bảng xếp hạng của Bỉ và Pháp, tuy nhiên không gây được ảnh hưởng tại Quebec. Album cũng được phát hành tại Tây Ban Nha và nằm trong top 10 của bảng xếp hạng vào mùa thu năm 2001. Đĩa đơn đầu tiên, phát hành vào mùa hè 2001, "J'y crois encore" đạt đến top 20 trên bảng xếp hạng của Pháp. Các đĩa đơn khác phát hành sau đó bao gồm "Immortelle", "Aimer Déjà" và đĩa đơn phát hành năm 2002, "[[Tu es mon autre]]" (một bản song ca với nghệ sĩ đồng hương [[Maurane]], được đề cử cho giải ca khúc của năm và nằm trong top 5 bảng xếp hạng Pháp).
 
Cũng trong năm 2001, cô hợp tác với [[David Foster]] và [[Vancouver Symphony Orchestra]] trong các bản ghi âm bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, và Anh-Pháp của ca khúc quốc ca của Canada, "[[O Canada]]", trong một chiến dịch quảng bá của chính phủ Canada. Năm 2002, Fabian tham gia ghi âm album nhạc cho [[Giải bóng đá vô địch thế giới 2002|World Cup 2002]], với ca khúc "World at Your Feet", được viết và sản xuất bởi [[Gary Barlow]].
 
Cuối năm 2002, Fabian phát hành album trực tiếp thứ hai, ''[[Live 2002 (album của Lara Fabian)|Live 2002]]'', gồm các ca khúc từ chuyến lưu diễn gần nhất, cùng với một DVD ghi hình các buổi hòa nhạc tổ chức vào tháng 12 năm 2001 tại Rừng Quốc gia ở [[Bỉ]] và tại [[Le Zénith]] ở Paris.
Dòng 88:
Năm 2004, Fabian phát hành album tiếng Anh thứ hai, ''[[A Wonderful Life (album)|A Wonderful Life]]''. Dự án không thành công về mặt thương mại, nhưng được giới phê bình đánh giá cao.{{cn|date=tháng 5, 2017}} Âm thanh tự nhiên trong album được hoàn thiện bởi nghệ sĩ ghi-ta người Pháp [[Jean-Félix Lalanne]], các nhà sản xuất [[Desmond Child]], [[Anders Bagge]] và đội sản xuất người Anh True North (gồm ca sĩ [[Gary Barlow]] của nhóm [[Take That]] và [[Elliot John Kennedy]]).
 
Đĩa đơn đầu tiên phát hành trên hệ thống các đài phát thanh là "The Last Goodbye" tại Hoa Kỳ và một số quốc gia khác (trừ Pháp). Tại Pháp, bài hát "No Big Deal" là đĩa đơn đầu tiên. Cả hai ca khúc đều không thành công và album không được quảng bá rộng rãi và bị hủy phát hành tại Hoa Kỳ. Tại Brazil, bài hát "I Guess I Loved You" đạt được thành công khiêm tốn, khi được đưa vào một chương trình phim đời sống thường nhật có tựa đề ''[[Senhora do Destino]]'' (tạm dịch: ''Định mệnh của cô ấy''), một loạt phim truyền hình nổi tiếng tại Brazil. Nhờ vậy, bài hát cũng được biết đến tại Bồ Đào Nha, mặc dù không được phát hành hay quảng bá chính thức. Cũng trong năm 2004, Fabian chia tay với nhà sản xuất âm nhạc Rick Allison, đồng thời chấm dứt hợp tác âm nhạc với nhà sản xuất này.<ref>{{Chú thích web|url= http://www.voici.fr/news-people/actu-people/lara-fabian-son-ex-rick-allison-l-insulte-et-lui-demande-de-ne-plus-chanter-ses-chansons-556858 |tiêu đề= Lara Fabian: son ex, Rick Allison, l’insulte et lui demande de ne plus chanter ses chansons |tác giả 1= Mathias Alcaraz |ngày tháng= ngày 30 tháng 3 năm 2015 |work= [[Voici]] |ngày truy cập=ngày 20 tháng 11 năm 2015|ngôn ngữ=tiếng Pháp}}</ref>
 
===2005–2007: Định hướng âm nhạc mới: ''9'', ''Un regard 9 Live'' và con gái đầu lòng===
{{See also|9 (album của Lara Fabian)}}
Sau một thời gian nghỉ ngơi vào năm 2004, Fabian trở lại với âm nhạc vào mùa xuân năm 2005 với album tiếng Pháp thứ 5, ''[[9 (album của Lara Fabian)|9]]''. Album được trình bày theo phong cách mới với sự nhẹ nhàng, yên bình và vui tươi, khác biệt hoàn toàn so với phong cách sâu lắng, kịch tích của các bản ghi âm thời kỳ trước đó. ''9'' bao gồm đĩa đơn hit "La Lettre", một bài hát mà Fabian đồng sáng tác với cộng sự mới của cô, [[Jean-Félix Lalanne]], người đã cùng sản xuất 11 bài hát trong album. Các đĩa đơn khác gồm "Ne lui parlez plus d'elle", "Un Ave Maria", "Il ne manquait que toi" và bài hát thể loại phúc âm, "L'homme qui n'avait pas de maison".
 
Tháng 10 năm 2006, Fabian phát hành các CD và DVD của chuyến lưu diễn đồng hành với album ''9'', lấy tựa đề ''[[Un regard 9 Live]]'' và gồm bản ghi âm buổi hòa nhạc vào ngày 29 tháng 3 năm 2006 tại nhà hát [[Le Zénith]] ở Paris. CD gồm 15 bản biểu diễn trực tiếp và một ca khúc mới, "Aime", ghi âm tại một phòng thu ở [[Montreal]].
 
Tháng 6 năm 2007, Fabian làm việc tại Rome và Los Angeles để ghi âm các ca khúc cho album phòng thu kế tiếp. Cùng lúc, đĩa đơn "Un Cuore Malato" (hợp tác với Gigi D'Alessio) đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng của Ý và thứ 16 trên bảng xếp hạng của Pháp. Tại Los Angeles, Fabian làm việc với [[David A. Stewart|Dave Stewart]] để thực hiện một album đa ngôn ngữ, gồm ca khúc bằng tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Ý và một số ngôn ngữ khác, dự định phát hành vào cuối năm 2008. Cũng trong năm 2007, Fabian cũng đến Québec để thực hiện một buổi hòa nhạc 2 đêm tại Olympia de Montreal. Tháng 10 cùng năm, cô trở thành khách mời bất ngờ trong buổi hòa nhạc của Gigi D'Alessio tại Olympia, Paris, Pháp. Ngày 20 tháng 11 năm 2007, Fabian sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Lou Pullicino.<ref>{{Chú thích web|tiêu đề=Lara Fabian welcomes a daughter|url=http://celebritybabies.people.com/2007/11/22/lara-fabian-wel/|website=celebritybabies.people.com|ngày truy cập=2017-11-11|ngày tháng=22 tháng 11 năm 2007}}</ref>
 
===2008–2012: ''Toutes les femmes en moi'' và album đa ngôn ngữ ''Mademoiselle Zhivago''===
Dòng 102:
Vài tháng sau khi sinh con đầu lòng, Fabian tổ chức một chuyến lưu diễn tại [[Ukraine]], Nga và [[Hi Lạp]]. Cô cũng xuất hiện ở một số sự kiện trên truyền hình, như trong Quốc khánh lần thứ 60 của Israel, sự kiện mà Fabian biểu diễn một số ca khúc tiếng Do Thái và song ca với ca sĩ người Israel Noa.
 
Trong năm 2008, Fabian trở về Bỉ để chuẩn bị ghi âm một album tiếng Pháp với nghệ sĩ piano [[Mark Herskowitz]]. Album có tựa đề ''[[Toutes les femmes en moi]]'', chủ yếu được ghi âm tại Montreal, phát hành vào tháng 5 năm 2009. Đĩa đơn đầu tiên từ album, "[[Soleil, Soleil]]", là một bản hát hát lại ca khúc của [[Nana Mouskouri]]. Đĩa đơn thứ hai là "Toutes les Femmes en moi", ca khúc gốc duy nhất trong album. Sau đó, Fabian phát hành album tiếng Anh ''[[Every Woman in Me]]'', gồm những bản hát lại các bài hát của các nghệ sĩ nổi tiếng.
 
Trong nửa đầu năm 2010, Fabian tổ chức một chuyến lưu diễn ở châu Âu, với các điểm dừng chân tại Pháp, Thụy Sĩ và Bỉ, biểu diễn hầu hết các bài hát trong ''Toutes Les Femmes En Moi'' cùng với một số ca khúc cổ điển và ca khúc người hâm mộ yêu thích. Cô cũng biểu diễn tại Đông Âu theo phong cách accoustic (chỉ hát với piano), và bổ sung vào danh sách biểu diễn một số bản ghi âm tiếng Anh trong album ''Every Woman in Me''. Tháng 9 năm 2010, cô phát hành ''Toutes Les Femmes En Moi'' tại Québec. Cô cũng tham gia ghi âm album ''Nuit Magique'' với ca sĩ người Canada Coral Egan.
 
Cuối năm 2010, Fabian phát hành một album chủ đề đa ngôn ngữ tại Nga và Ukraine, với tựa đề ''[[Mademoiselle Zhivago]]'' (tạm dịch: ''Cô Zhivago''). Album gồm 11 ca khúc thể hiện bằng những ngôn ngữ khác nhau, được sáng tác bởi nhạc sĩ người Nga [[Igor Krutoy]]. Album là những câu chuyện của một người phụ nữ trải nghiệm những kiếp sống qua vài năm vài thế kỷ. 11 video âm nhạc cho từng bài hát, kết hợp lại tạo thành một bộ phim dài hoàn chỉnh, được sản xuất và đạo diễn bởi nhà sản xuất phim người Ukraine Alan Badoev. Album gồm một CD và một DVD, phát hành lần đầu vào tháng 10 năm 2010 tại Ukraine, vào tháng 11 tháng Nga.
 
Các bài hát được sáng tác bởi Fabian cùng Igor Krutoy, bằng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Nga. Fabian đã giới thiệu một trong số các ca khúc vào năm 2009, trong lễ hội âm nhạc New Wave Festival tại Latvia, với ca khúc "Demain n'existe pas". Sau đó, năm 2010, cô trở lại sân khấu này, trình diễn những ca khúc mới của album. Cô quảng bá cho album này ở cả hai quốc gia, trên cả truyền hình, kết hợp với việc biểu diễn trực tiếp một loạt buổi hòa nhạc giới thiệu các ca khúc mới đến công chúng Đông Âu. Fabian cũng là khách mời biểu diễn trong chương trình X Factor của Ukraine vào ngày 30 tháng 10, thể hiện các bài hát "Mademoiselle Hyde", "Demain N'Existe Pas" của album mới, và ca khúc cổ điển "Adagio". Năm 2012, cô ghi âm "Ma Solitude", một ca khúc hợp tác với nam ca sĩ người Hi Lạp [[George Perris]], trong album ''[[Un Souhait]]'' của anh.
 
===2013–2015: ''Le Secret'', ''Essential'' và ''Ma vie dans la tienne''===
{{See also|Le Secret (album)|Ma vie dans la tienne}}
Fabian phát hành album tiếng Pháp thứ sáu, ''[[Le Secret (album)|Le Secret]]'' vào ngày 17 tháng 4 năm 2013, gồm 17 ca khúc mới. Cùng ngày, cô biểu diễn các bài hát mới tại [[Théâtre de Paris]]. Album ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạng của Pháp. Đĩa đơn đầu tiên từ album, "[[Deux ils, Deux elles]]", phát hành vào ngày 20 tháng 2 năm 2013. Bài hát nói về tình yêu của hai người đàn ông và hai người phụ nữ, truyền đạt thông điệp về sự khoan dung và sự chấp nhận với cộng đồng [[LGBT]] – tương tự như ca khúc "[[La Différence]]".
 
Đầu năm 2014, lịch lưu diễn và ghi âm của Fabian đã bị hủy bỏ sau khi cô gặp chấn thương tai do một sự cố âm thanh.<ref name=malade /><ref name=legras /> Tháng 8 cùng năm, cô phát hành một ca khúc hợp tác với nghệ sĩ người Thổ Nhĩ Kỳ [[Mustafa Ceceli]]. Bản nhạc có tựa đề "Make Me Yours Tonight", viết bởi Anthony James và Yiorgos Bellapaisiotis, được phát hành thành các EP phiên bản tiếng Anh và tiếng Thổ Nhĩ Kỳ ("Al Götür Beni"), cùng với một phiên bản accoustic phát hành bổ sung. Đĩa đơn đạt vị trí số 1 trên bảng xếp hạng đĩa vật lý tại Thổ Nhĩ Kỳ, và vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng kỹ thuật số. Một số bản phối lại của "Make Me Yours Tonight" được phát hành thành EP trên toàn cầu vào tháng 4 năm 2015, trong loạt album tuyển tập, lấy tên là ''Selection''. EP đạt vị trí thứ 12 trên bảng xếp hạng iTunes Dance Albums của Pháp, và thứ 5 trên bảng xếp hạng iTunes Album Chart của Thổ Nhĩ Kỳ.
 
Ngày 14 tháng 12 năm 2014, trong chương trình L'Arena, phát sóng trên kênh truyền hình [[Rai 1]] của Ý, dẫn chương trình [[Massimo Giletti]] và khách mời [[Carlo Conti]] đã hé lộ<ref>{{Chú thích web|url = http://www.sorrisi.com/musica/i-cantanti-di-sanremo-2015-i-20-concorrenti/|tiêu đề = Sanremo 2015, i nomi dei 20 artisti in gara al Festival|ngày tháng = 14 Dec 2014|ngày truy cập = 14 Dec 2014|website = Sorrisi.com|nhà xuất bản = |họ 1 = |tên 1 = }}</ref> danh sách các nghe sĩ trình diễn tại [[Nhạc hội Sanremo|Lễ hội Âm nhạc Sanremo]] [[Nhạc hội Sanremo 2015|lần thứ 65]]. Fabian nằm trong danh sách 20 ca sĩ "lớn" (chính). Đây là lần thứ hai cô xuất hiện trên sân khấu [[Teatro Ariston|nhà hát Ariston]] (kể từ [[Nhạc hội Sanremo 2007|lần xuất hiện trong vai trò khách mời năm 2007]] cùng với [[Gigi D'Alessio]]) và là lần đầu tiên cô xuất hiện trong với vị trí của thí sinh hát đơn. Trong một số cuộc phỏng vấn, cô nói rằng sẽ dành tặng phần trình diễn cho người mẹ của mình. Fabian gọi bài hát cô gửi đến chương trình là "một bài thánh ca nhẹ nhàng và say mê".
 
Trong chương trình phát sóng vào buổi tối này 10 tháng 2 năm 2015, Fabian đã biểu diễn đĩa đơn mới có tên gọi "Voce" dành cho thị trường Ý.<ref>{{Chú thích web|url = http://www.rai.tv/dl/RaiTV/programmi/media/ContentItem-a732c361-5206-41d3-a82b-7276147a367f.html|tiêu đề = Lara Fabian canta "Voce" - Sanremo 2015|ngày tháng = 10 Feb 2015|ngày truy cập = 10 Feb 2015|website = Rai.TV|nhà xuất bản = Rai.TV|họ 1 = |tên 1 = }}</ref> Ca khúc này được đưa vào album tuyển tập mới có tựa đề ''Essential'', phát hành riêng tại quốc gia này bởi [[Warner Music Group|Warner Italy]].<ref>{{Chú thích web|url = http://www.closermag.fr/people/people-francais/info-closer-lara-fabian-revient-sur-sa-participation-a-san-remo-c-est-un-g-468554|tiêu đề = LARA FABIAN REVIENT SUR SA PARTICIPATION À SAN REMO: "C'EST UN GRAND CONCOURS COMPLIQUÉ" (INTERVIEW)|ngày tháng = 17 Feb 2015|ngày truy cập = 17 Feb 2015|website = closermag.fr|nhà xuất bản = Mondadori Magazines France|họ 1 = Serra|tên 1 = Michele}}</ref>
 
Trong tối ngày 12 tháng 2 năm 2015, Fabian biểu diễn ở cùng sân khấu ca khúc "Sto male",<ref>{{Chú thích web|url = http://www.rai.tv/dl/RaiTV/programmi/media/ContentItem-75bbf369-f4ff-428c-9548-27ddfb0c9e75.html|tiêu đề = Lara Fabian canta Sto male - Sanremo 2015|ngày tháng = 12 Feb 2015|ngày truy cập = 13 Feb 2015|website = Rai.TV|nhà xuất bản = |họ 1 = |tên 1 = }}</ref> một phiên bản bằng tiếng Ý của bài hát "Je Suis Malade" do [[Ornella Vanoni]] biên soạn.<ref>{{Chú thích web|url = http://video.repubblica.it/dossier/sanremo-2015/sanremo-lara-fabian-canta-sto-male/191873/190826|tiêu đề = Sanremo, Lara Fabian canta ''Sto male''|ngày tháng = 13 Feb 2015|ngày truy cập = 13 Feb 2015|website = video.repubblica.it|nhà xuất bản = Gruppo Editoriale L'Espresso|họ 1 = |tên 1 = |url hỏng = yes|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20150213141428/http://video.repubblica.it/dossier/sanremo-2015/sanremo-lara-fabian-canta-sto-male/191873/190826|ngày lưu trữ = ngày 13 tháng 2 năm 2015}}</ref> Đây là một đêm thi nhỏ của Sanremo dành cho các phiên bản hát lại, và Fabian cuối cùng đã thất bại trước [[Nek]] và bài hát "[[:it:Se telefonando/No|Se telefonando]]" nổi tiếng của nghê sĩ [[Mina (ca sĩ)|Mina]].
 
Tối ngày 13 tháng 2, cô biểu diễn lại bài hát "Voce",<ref>{{Chú thích web|url = http://video.repubblica.it/dossier/sanremo-2015/sanremo-lara-fabian-voce/192032/190994|tiêu đề = Sanremo, Lara Fabian: "Voce"|ngày tháng = 13 Feb 2015|ngày truy cập = 14 Feb 2015|website = video.repubblica.it|nhà xuất bản = Gruppo Editoriale L’Espresso SPA|họ 1 = |tên 1 = |url hỏng = yes|url lưu trữ = https://web.archive.org/web/20150214232049/http://video.repubblica.it/dossier/sanremo-2015/sanremo-lara-fabian-voce/192032/190994|ngày lưu trữ = ngày 14 tháng 2 năm 2015}}</ref> trước khi nhận thất bại chung cuộc trong cuộc thi,<ref>{{Chú thích web|url = http://video.repubblica.it/dossier/sanremo-2015/sanremo-big-eliminati-biggio-mandelli-fabian-raf-tatangelo/192056?video|tiêu đề = Sanremo, big eliminati: Biggio-Mandelli, Fabian, Raf, Tatangelo|ngày tháng = 14 Feb 2015|ngày truy cập = 14 Feb 2015|website = video.repubblica.it|nhà xuất bản = Gruppo Editoriale L’Espresso Spa|họ 1 = |tên 1 = }}</ref> điều mà cô đã dự trù từ khi mới tham gia cuộc thi.<ref>{{Chú thích web|url = http://www.soundsblog.it/post/335154/sanremo-2015-10-febbraio-diretta-streaming-canzoni-ospiti-al-bano-romina-cantanti-big-scaletta-esibizioni|tiêu đề = Sanremo 2015 prima serata: Grignani, Fabian, Britti, Di Michele e Coruzzi a rischio eliminazione|ngày tháng = 11 Feb 2015|ngày truy cập = 14 Feb 2015|website = soundsblog.it|nhà xuất bản = Canale Blogo Entertainment|họ 1 = |tên 1 = }}</ref> Một bài viết trên một ấn bản địa phương của Nhac hội San Remo, có tựa đề "Tạm biệt các nghệ sĩ ngoại quốc ở Sanremo", viết bởi Erika Cannoletta, cho rằng sự thiếu trong dụng tài năng và các vấn đề chính trị ít người biết tới phía sau cuộc thi là hai trong nhiều lí do dẫn đến việc nghệ sĩ bị loại. Trước đó, khán giả và giới báo chí Ý tỏ ra khá lạnh nhạt về Fabian, đặc biệt về danh tiếng của cô ở quốc gia này. Trong một bài viết có phần cay độc và gây tranh cãi có tựa đề "Sanremo 2015, Lara Fabian là ai? Một nghệ sĩ quốc tế mà không ai biết đến",<ref>{{Chú thích web|url = http://www.ilfattoquotidiano.it/2015/02/11/sanremo-2015-lara-fabian-star-internazionale-nessuno-mai-sentito/1415172/|tiêu đề = Sanremo 2015, chi è Lara Fabian? La star internazionale che nessuno ha mai sentito|ngày tháng = 11 Feb 2015|ngày truy cập = 14 Feb 2015|website = ilfattoquotidiano.it|nhà xuất bản = Editoriale il Fatto S.p.A.|họ 1 = |tên 1 = }}</ref> nhà văn-nhà phê bình âm nhạc Michele Monina (của [[Il Fatto Quotidiano]]) tỏ ra nghi ngờ về danh tiếng, sự nghiệp và chất lượng của nữ ca sĩ, kéo theo một cuộc tranh cãi sôi nổi trong mục bình luận.
 
Ngày 15 tháng 2, cô trình diễn lần cuối cùng trên sân khấu Domenica In của kênh Rai 1, thu hút sự chú ý rộng rãi. Fabian trở lại với chuyến lưu diễn Greatest Hits Tour, để hỗ trợ cho sản phẩm mới phát hành, bắt đầu từ ngày 21 tháng 2 năm 2015 với việc trình diễn [[Menora Mivtachim Arena|sân vận động Nokia]], [[Tel Aviv|Tel Aviv-Jaffa]], [[Israel]].<ref>{{Chú thích web|url = http://www.chartsinfrance.net/communaute/index.php?/topic/47271-lara-fabian-greatest-hits-tour-2015/|tiêu đề = Lara Fabian "Greatest Hits Tour 2015"|ngày tháng = 31 Jan 2013|ngày truy cập = |website = chartsinfrance.net|nhà xuất bản = |họ 1 = |tên 1 = }}</ref>
 
Tháng 11 năm 2015, Lara phát hành album phòng thu thứ 9, có tựa đề ''[[Ma vie dans la tienne]]'' (''My Life In Yours''), bao gồm các bài hát cô đồng sáng tác với David Gategno và Elodie Hesme. Album này được phát hành dưới giấy phép của Warner Music France, bao gồm các đĩa đơn "Quand je ne chante pas", "Ma vie dans la tienne", "L'oubli" "Ton désir". Album được chứng nhận Bạch kim tại Pháp, Vàng tại Bỉ, và đã bán được hơn 150.000 bản trên toàn cầu.
 
===2016–nay: Trở lại Canada: ''Camouflage'', ''Papillon'' và truyền hình thực tế===
{{See also|Camouflage (album của Lara Fabian)|Papillon (album của Lara Fabian)}}
Năm 2016, Fabian bắt đầu thu âm một album tiếng Anh mới với dự định phát hành vào mùa thu năm 2017, lấy tựa đề là ''[[Camouflage (album của Lara Fabian)|Camouflage]]'' (''Ngụy trang''), với đội ngũ sản xuất âm nhạc người Thụy Điển–Hoa Kỳ.<ref>{{chú thích web|author1=Tuấn Thảo|title=Lara Fabian ra album tiếng Anh nhân vòng lưu diễn mới|url=http://vi.rfi.fr/phap/20170826-lara-fabian-album-tieng-anh-nhan-vong-luu-dien-moi|website=vi.rfi.fr|publisher=[[RFI]]|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Việt|date = ngày 26 tháng 8 năm 2017}}</ref> Album gồm 12 bài hát ở thể loại electro-pop và được phát hành vào ngày 6 tháng 10 năm 2017.<ref>{{chú thích web|title=Musique: Lara Fabian sort un nouvel album, intitulé "Camouflage"|url=https://www.lci.fr/culture/musique-lara-fabian-sort-un-nouvel-album-intitule-camouflage-2066433.html|website=lci.fr|publisher=LCI|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |date = ngày 5 tháng 10 năm 2017}}</ref><ref>{{chú thích web|last1=Rogers|first1=Sarah|title=Fabian can’t ‘Camouflage’ her talent|url=https://usishield.com/26500/reviews/fabian-cant-camouflage-her-talent/|website=usishield.com|publisher=The Shield|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Anh|date = ngày 10 tháng 10 năm 2017}}</ref> Đĩa đơn đầu tiên, "Growing Wings", cùng với video âm nhạc, được phát hành vào ngày 4 tháng 8 năm 2017, trùng với thời điểm album có sẵn để đặt trước.<ref>{{chú thích web|last1=Ruelle|first1=Yohann|title=Clip "Growing Wings": Lara Fabian se ressource en Islande|url=http://www.chartsinfrance.net/Lara-Fabian/news-104840.html|website=chartsinfrance.net|publisher=Pure Charts|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |date = ngày 15 tháng 8 năm 2017}}</ref> Ngày 8 tháng 9 năm 2017, Fabian phát hành đĩa đơn thứ hai, "Choose What You Love Most (And Let It Kill You)." Cũng trong tháng này, cô ra mắt ca khúc "Remember Me", một bài hát nằm trong album nhạc phim của một bộ phim ngắn được thực hiện để nâng cao nhận thức của cộng đồng về căn bệnh [[Xơ cứng teo cơ một bên|ALS]], ''Cello''.<ref>{{chú thích web|title=Lara Fabian, "Remember Me" (CELLO Original Soundtrack)|url=https://www.youtube.com/watch?v=MiTFBE-HM14|website=youtube.com|publisher=Cello Movie|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |date = ngày 8 tháng 9 năm 2017}}</ref><ref>{{chú thích web|title=Lara Fabian Speaks About Cello|url=https://www.youtube.com/watch?v=puQ0YvtNeRY|website=youtube.com|publisher=Cello Movie|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |date = ngày 20 tháng 9 năm 2017}}</ref> Vào ngày 14 tháng 12 năm 2017, cô được Chính quyền của vùng Wallonie trao tặng [[:fr:Mérite wallon#Lauréats 2017|Huân chương danh dự cấp bậc Chỉ huy ở lĩnh vực Âm nhạc]].<ref name="2017_cmw">{{chú thích web|title=Qui a été distingué ? - 2017|url=http://connaitrelawallonie.wallonie.be/fr/wallons-marquants/merite/filtre?title=&promotion=3535&rang=All&activite_m=All&Filtrer=Filtrer#.XN508cgzbIW|website=connaitrewallonie.wallonie.be|publisher=Portail Wallonie.be|accessdate = ngày 17 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Pháp}}</ref> Huân chương được trao tặng để "nhấn mạnh tầm quan trọng của công việc của cô với khu vực, của hình ảnh và tầm ảnh hưởng của cô với hai bên bờ Đại Tây Dương".<ref>{{chú thích web|title=Lara Fabian Commandeur (2017)|url=http://connaitrelawallonie.wallonie.be/fr/wallons-marquants/merite/fabian-lara#.XN5zd8gzbIU|website=connaitrewallonie.wallonie.be|publisher=Portail Wallonie.be|accessdate = ngày 17 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Pháp}}</ref>
 
Đầu năm 2018, Fabian khởi động chuyến lưu diễn hỗ trợ cho ''Camouflage'', "Camouflage World Tour". Bắt đầu tại [[Miami]], [[Hoa Kỳ]] vào ngày 2 tháng 2 năm 2018,<ref>{{chú thích web|title=Lara Fabian Announces CAMOUFLAGE World Tour|url=https://www.broadwayworld.com/bwwmusic/article/-Lara-Fabian-Announces-CAMOUFLAGE-World-Tour-20180116|website=broadwayworld.com|publisher=Wisdom Digital Media|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Anh|date = ngày 16 tháng 1 năm 2018}}</ref> chuyến lưu diễn gồm 40 buổi hòa nhạc và khép lại với buổi diễn cuối cùng tại [[Paris]], [[Pháp]] vào tháng 6 năm 2018. Ngày 6 tháng 2 năm 2018, một phiên bản phối lại của ca khúc "Chameleon" được phát hành thành đĩa đơn thứ ba từ ''Camouflage''.<ref>{{chú thích web|last1=Ruelle|first1=Yohann|title="Chameleon": Lara Fabian enchaîne avec un single électro-pop dancefloor (màj)|url=http://www.chartsinfrance.net/Lara-Fabian/news-106052.html|website=chartsinfrance.net|publisher=Pure Charts|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 6 tháng 2 năm 2018}}</ref> Cũng trong năm này, tại [[Canada]], cô bắt đầu giữ vị trí huấn luyện viên của chương trình truyền hình thực tế tìm kiếm tài năng ''[[La Voix]]'' kể từ mùa thứ 6 của chương trình.<ref>{{chú thích web|last1=Burnett|first1=Richard|title=English Montrealers have a voice on La Voix|url=https://montrealgazette.com/entertainment/music/english-montrealers-have-a-voice-on-la-voix|website=montrealgazette.com|publisher=Post Media Network Inc.|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 11 tháng 2 năm 2018}}</ref> Ở mùa thứ 7, thí sinh Geneviève Jodoin của đội Fabian trở thành người chiến thắng chung cuộc của cuộc thi.<ref>{{chú thích web|title=Geneviève Jodoin gagne La voix|url=https://ici.radio-canada.ca/nouvelle/1168134/genevieve-jodoin-gagne-la-voix-emission|website=ici.radio-canada.ca|publisher=Société Radio‑Canada|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 6 tháng 5 năm 2019}}</ref>
 
Tháng 9 năm 2018, Fabian thông báo về việc phát hành đĩa đơn mới "Papillon", một ca khúc được viết và sáng tác bởi chính cô cùng với [[Moh Denebi]] và [[Sharon Vaughn]].<ref>{{chú thích web|title=0 LARA FABIAN ANNONCE UN NOUVEAU SINGLE ET UN ALBUM POUR FÉVRIER 2019|url=http://www.monafm.fr/news/lara-fabian-annonce-un-nouveau-single-et-un-album-pour-f%C3%A9vrier-2019-7481|website=monafm.fr|publisher=Radio King|accessdate = ngày 28 tháng 1 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 4 tháng 10 năm 2018}}</ref> Đĩa đơn được phát hành vào ngày 5 tháng 10 năm 2018. Đây là đĩa đơn đầu tiên từ ''[[Papillon (album của Lara Fabian)|album phòng thu thứ 14]]'' có cùng tựa đề của nữ ca sĩ, gồm 11 ca khúc và phát hành vào ngày 8 tháng 2 năm 2019.<ref>{{chú thích web|author1=Nick van Lith|title=Lara Fabian goes back to French music with “Papillon”|url=https://escxtra.com/2018/10/22/lara-fabian-papillon/|website=escxtra.com|publisher=ESCXTRA|accessdate = ngày 28 tháng 1 năm 2019 |language=tiếng Anh|date = ngày 22 tháng 10 năm 2018}}</ref><ref name="je suis a toi">{{chú thích web|author1=Yohan Ruelle|title=Clip "Je suis à toi": Lara Fabian savoure les petits bonheurs quotidiens de l'amour|url=http://www.chartsinfrance.net/Lara-Fabian/news-108968.html|website=chartsinfrance.net|publisher=Pure Charts|accessdate = ngày 28 tháng 1 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 27 tháng 12 năm 2018}}</ref> Được mô tả là album "trở lại Québec" "sản xuất 100% tại Québec",<ref name="2019tour1">{{chú thích web|last1=Lapointe|first1=Bruno|title=Lara Fabian de retour au sommet|url=https://www.tvanouvelles.ca/2019/03/03/lara-fabian-de-retour-au-sommet-1|website=tvanouvelles.ca|publisher=TVA Nouvelles|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 3 tháng 3 năm 2019}}</ref> album được ghi âm trong vòng 11 ngày ở tầng hầm căn hộ của Fabian tại [[Montreal]].<ref name="paramour"/> Album ra mắt ở vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng [[Ultratop]] khu vực Wallonia của Bỉ.<ref>{{chú thích web|title=Lara Fabian - Papillon|url=https://www.ultratop.be/fr/album/5c569/Lara-Fabian-Papillon|publisher=Hung Medien|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019}}</ref> Ngày 30 tháng 11 năm 2018, "Je suis à toi" được phát hành thành đĩa đơn thứ hai từ album,<ref name="je suis a toi 2">{{chú thích web|title=Je suis à toi - Lara Fabian|url=https://www.qobuz.com/be-fr/album/je-suis-a-toi-lara-fabian/x111zkxzlv0sa|website=qobuz.com|publisher=XANDRIE SA|accessdate = ngày 28 tháng 1 năm 2019 |language=tiếng Pháp}}</ref> video âm nhạc cho bài hát được phát hành vào ngày 20 tháng 12 năm 2018.<ref>{{chú thích web|title=Lara Fabian - JE SUIS À TOI (Official Video)|url=https://www.youtube.com/watch?v=b7jHPvnpjNQ|website=youtube.com|accessdate = ngày 28 tháng 1 năm 2019 |date = ngày 20 tháng 12 năm 2018}}</ref> Video âm nhạc cho đĩa đơn thứ ba, "Par amour", ra mắt vào ngày 4 tháng 3 năm 2019.<ref name="paramour">{{chú thích web|last1=Ruelle|first1=Yohann|title=Clip "Par amour": Lara Fabian trouve la force de se relever|url=http://www.chartsinfrance.net/Lara-Fabian/news-109566.html|website=chartsinfrance.net|publisher=Pure Charts|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 4 tháng 3 năm 2019}}</ref><ref>{{chú thích web|title=Lara Fabian lance un clip dansant pour Par amour|url=https://hollywoodpq.com/lara-fabian-lance-un-clip-dansant-pour-par-amour/|website=hollywoodpq.com|publisher=Culture Pop|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 4 tháng 3 năm 2019}}</ref> Vào đầu tháng 2 năm 2019, Fabian thông báo rằng chuyến lưu diễn "50 World Tour" hỗ trợ cho ''Papillon'', kỷ niệm sinh nhật lần thứ 50 cũng như 30 năm sự nghiệp của nữ ca sĩ sẽ khởi động vào cuối năm 2019, với các buổi hòa nhạc được tổ chức tại 50 thành phố trên thế giới.<ref name="2019tour1"/><ref name="2019tour2">{{chú thích web|first1=Charlottehazet|title=Lara Fabian dévoile son album et annonce une grande tournée !|url=https://hey-alex.fr/lara-fabian-devoile-son-album-et-annonce-une-grande-tournee/|website=hey-alex.fr|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 7 tháng 2 năm 2019}}</ref><ref name="2019tour3">{{chú thích web|first1=Newsroom|title=Singer Lara Fabian comes to Bucharest for two concerts in November|url=https://www.romania-insider.com/lara-fabian-bucharest-november-2019|website=romania-insider.com|publisher=City Compass Media|accessdate = ngày 15 tháng 5 năm 2019 |language=tiếng Anh|date = ngày 12 tháng 4 năm 2019}}</ref>
 
Cuối tháng 7 năm 2019, Fabian thông báo sẽ không tiếp tục tham gia mùa giải tiếp theo của ''La Voix''.<ref>{{chú thích web|last1=Paradis|first1=Karine|title=LARA FABIAN ANNONCE QU'ELLE NE REVIENDRA PAS À LA VOIX L'AN PROCHAIN|url=https://www.envedette.ca/potins-stars-quebec/television/lara-fabian-annonce-qu-elle-ne-reviendra-pas-a-la-voix-l-an-prochain-1.9484654?fbclid=IwAR35dLiMRsdeunoFqKyT8Uw_Vwo3-gmrFy7bZhtG7j4l2HkHOQwYU2Q22mA|website=envedette.ca|publisher=Bell Média|accessdate = ngày 8 tháng 9 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 20 tháng 7 năm 2019}}</ref> Thay vào đó, cô sẽ trở thành huấn luyện viên trong mùa giải thứ chín của ''[[:en:The Voice (French TV series)|The Voice: la plus belle voix]]'' — phiên bản Pháp của chương trình truyền hình thực tế ''[[The Voice]]'', phát sóng vào đầu năm 2020.<ref>{{chú thích web|first1=Jean|title=The Voice 9 - Saison 2020: Jury, dates, infos|url=https://www.evous.fr/The-Voice-TF1-battles-direct-resume,1175170.html?fbclid=IwAR3OdLd_KlEgu7D2_lKvw6YcyFsAfO53s1yGc0qMvs0RbmJU5To3F26da-Q|website=evous.fr|publisher=Evous SARL|accessdate = ngày 8 tháng 9 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 30 tháng 8 năm 2019}}</ref> Vào tháng 10 năm 2019, Fabian nhận được 2 đề cử ở các hạng mục Nữ nghệ sĩ của năm và Album pop của năm (cho ''Papillon'') tại lễ trao [[Giải Félix|giải Felix]] lần thứ 41.<ref>{{chú thích web|first1=Louis-Phillpe|last1=Labrèche|title=Les résultats du gala de l’ADISQ 2019|url=https://lecanalauditif.ca/actualites/les-resultats-du-gala-adisq-2019/|website=lecanalauditif.ca|publisher=Culturecible|accessdate = ngày 18 tháng 11 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 27 tháng 10 năm 2019}}</ref> Đây là những đề cử đầu tiên của cô tại giải thưởng này kể từ sau khi cô chiến thắng tại gala [[Giải Félix|ADISQ]] năm 1995.<ref>{{chú thích web|last1=Vedettes|first1=Échos|title=Tous les potins du Gala de l'ADISQ|url=https://www.7jours.ca/2019/10/31/tous-les-potins-du-gala-de-ladisq|website=7jours.ca|publisher=Québecor|accessdate = ngày 18 tháng 11 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 31 tháng 10 năm 2019}}</ref><ref name="adisq 1995">{{chú thích web|last1=Gaudet|first1=Agnès|title=Photos souvenirs: Lara Fabian|url=https://www.journaldemontreal.com/2017/12/10/photos-souvenirs-lara-fabian|website=journaldemontreal.com|accessdate = ngày 18 tháng 11 năm 2019 |language=tiếng Pháp|date = ngày 10 tháng 12 năm 2017}}</ref>
 
Vào đầu tháng 2 năm 2020, Fabian cho biết cô sẽ phát hành một phiên bản phát hành lại của album ''Papillon'' vào ngày 20 tháng 3, lấy tựa đề mới là ''Papillon(s)'' và bổ sung 3 ca khúc mới so với phiên bản gốc.<ref>{{chú thích web|last1=Ruelle|first1=Yohann|title=Lara Fabian: une réédition de l'album "Papillon" le 20 mars|url=http://www.chartsinfrance.net/Lara-Fabian/news-112819.html|website=chartsinfrance.net|publisher=Pure Charts|accessdate = ngày 19 tháng 4 năm 2020 |language=tiếng Pháp|date = ngày 11 tháng 2 năm 2020}}</ref><ref>{{chú thích web|last1=Hamdi|first1=Ouns|title=Lara Fabian: Decouvrez Sa Chanson « C'est L’heure »|url=http://www.rfm.fr/news/Lara-Fabian-Decouvrez-sa-chanson-C-est-l-heure-19024|website=rfm.fr|publisher=[[RFM (đài phát thanh Pháp)|RFM]]|accessdate = ngày 19 tháng 4 năm 2020 |language=tiếng Pháp|date = ngày 10 tháng 3 năm 2020}}</ref> Vào ngày 28 tháng 2, Fabian phát hành bài hát "C'est l'heure" thành đĩa đơn đầu tiên từ ''Papillon(s)''.<ref>{{chú thích web|title=Album C'est l'heure, Lara Fabian|url=http://testicanzoni.mtv.it/testi-Lara-Fabian_1374/C'est-l'heure-album_36934908|website=testicanzoni.mtv.it|publisher=[[MTV|MTV Ý]]|accessdate = ngày 19 tháng 4 năm 2020 |language=tiếng Ý}}</ref> Sang đầu tháng 3, do diễn biến phức tạp của dịch [[COVID-19]], nữ ca sĩ thông báo dời lịch phát hành ''Papillon(s)'' đến ngày 15 tháng 5.<ref>{{chú thích web|last1=Gonçalves|first1=Julien|title="Papillon(s)": Lara Fabian repousse la sortie de la réédition de son album|url=http://www.chartsinfrance.net/Lara-Fabian/news-113198.html|website=chartsinfrance.net|publisher=Pure Charts|accessdate = ngày 19 tháng 4 năm 2020 |language=tiếng Pháp|date = ngày 17 tháng 3 năm 2020}}</ref> Cô cũng hoãn toàn bộ các buổi diễn còn lại của "50 World Tour" tại Pháp và Canada đến tháng 9 và tháng 12 năm 2020.<ref>{{chú thích web|last1=Berthelot|first1=Théau|title=Coronavirus: Lara Fabian reporte les concerts français de sa tournée|url=http://www.chartsinfrance.net/Lara-Fabian/news-113148.html|website=chartsinfrance.net|publisher=Pure Charts|accessdate = ngày 19 tháng 4 năm 2020 |language=tiếng Pháp|date = ngày 13 tháng 3 năm 2020}}</ref><ref>{{chú thích web|author1=Agence QMI|title=Le «50 World Tour» de Lara Fabian en décembre à Montréal et Québec|url=https://www.journaldemontreal.com/2020/04/17/le-50-world-tour-de-lara-fabian-en-decembre-a-montreal-et-quebec|website=journaldemontreal.com|publisher=''[[Le Journal de Montréal]]''|accessdate = ngày 19 tháng 4 năm 2020 |language=tiếng Pháp|date = ngày 17 tháng 4 năm 2020}}</ref> Vào ngày 10 tháng 4, Fabian phát hành đĩa đơn và video âm nhạc của một bài hát mới có tựa đề là "Nos cœurs à la fenêtre".<ref name="le_figaro_avril_2020">{{chú thích web|title=Nos coeurs à la fenêtre, Lara Fabian chante pour ses quatre pays avec des invités surprise|url=https://www.lefigaro.fr/musique/nos-coeurs-a-la-fenetre-lara-fabian-chante-pour-ses-quatre-pays-avec-des-invites-surprise-20200412|website=lefigaro.fr|publisher=''[[Le Figaro]]''|accessdate = ngày 19 tháng 4 năm 2020 |language=tiếng Pháp|date = ngày 12 tháng 4 năm 2020}}</ref> Ca khúc do cô đồng sáng tác cùng Elodie Hesme và Moh Dennebi, với phần lời được viết bằng tiếng Pháp và tiếng Ý. Bài hát được lấy cảm hứng từ sự kiện [[người Ý|người dân tại Ý]] đứng hát [[Il Canto degli Italiani|quốc ca]] trên ban công vào ngày 13 tháng 3 năm 2020, trong bối cảnh quốc gia này đang chịu nhiều tổn thất vì dịch COVID-19.<ref name="rtbf_avril_2020">{{chú thích web|last1=Saint-Amand|first1=François|title="Nos cœurs à la fenêtre", l'inédit de Lara Fabian inspiré des Italiens chantant depuis leur balcon|url=https://www.rtbf.be/vivacite/emissions/detail_le-6-9-ensemble/accueil/article_nos-c-urs-a-la-fenetre-l-inedit-de-lara-fabian-inspire-des-italiens-chantant-depuis-leur-balcon?id=10479702&programId=16557|website=rtbf.be|publisher=[[RTBF]]|accessdate = ngày 19 tháng 4 năm 2020 |language=tiếng Pháp|date = ngày 10 tháng 4 năm 2020}}</ref><ref>{{chú thích web|last1=Fabriès|first1=Céline|title=Lara Fabian dévoile Nos coeurs à la fenêtre en hommage aux personnes en première ligne|url=https://www.ledroit.com/actualites/covid-19/lara-fabian-devoile-nos-coeurs-a-la-fenetre-en-hommage-aux-personnes-en-premiere-ligne-cf6a61c2e63cd6b23bcaee36412f3135|website=ledroit.com|publisher=''[[Le Droit]]''|accessdate = ngày 19 tháng 4 năm 2020 |language=tiếng Pháp|date = ngày 10 tháng 4 năm 2020}}</ref> Fabian cho biết lợi nhuận thu được từ đĩa đơn sẽ được quyên góp cho các nhân viên y tế đang chống dịch tại Bỉ, Canada, Pháp và [[Ý]].<ref name="le_figaro_avril_2020"/><ref name="rtbf_avril_2020"/> "Nos cœurs à la fenêtre" ra mắt ở vị trí thứ 16 trên bảng xếp hạng [[Ultratop 50]] Wallonie trong tuần ngày 18 tháng 4 năm 2020, trở thành đĩa đơn có thành tích xếp hạng tốt nhất của Fabian tại khu vực Wallonie kể từ năm 2007.<ref>{{chú thích web|title=La publication par Ultratop|url=https://m.facebook.com/story.php?story_fbid=10156785814816736&id=26695546735&fs=0&focus_composer=0|website=facebook.com|publisher=[[Ultratop]]|accessdate = ngày 19 tháng 4 năm 2020 |language=tiếng Pháp|date = ngày 17 tháng 4 năm 2020}}</ref><ref>{{chú thích web|title=Ultratop Singles - 18/04/2020|url=https://www.ultratop.be/fr/ultratop50/2020/20200418|website=ultratop.be|publisher=Hung Medien|accessdate = ngày 19 tháng 4 năm 2020 |language=tiếng Pháp}}</ref>
 
==Phong cách nghệ thuật==
Dòng 146:
 
==Sự nghiệp sáng tác và diễn xuất==
Fabian đã viết nhạc cho một số nghệ sĩ khác, như các ca sĩ người Pháp [[Chimène Badi]], [[Nolwenn Leroy]] và [[Myriam Abel]]. Cô cũng sáng tác cho [[Daniel Lévi]] và được cho là hiện đang làm việc với một cựu thí sinh từ chương trình "Nouvelle Star 3" có tên Roland. Cô từng thường xuyên tán dương giọng hát và tài năng của nữ ca sĩ thành công [[Amel Bent]], người cũng từng là thí sinh của chương trình này.
Cô đã viết bài hát "Dis-moi comment t'aimer" cho nam ca sĩ người Hy Lạp [[George Perris]] trong album ''[[Un Souhait]]''.
Ca khúc "[[Imaginer]]" trong album ''Dream with Me'' của [[Jackie Evancho]] ban đầu được Fabian và nhạc sĩ [[Walter Afanasieff]] sáng tác bằng tiếng Anh với tựa đề "[[Broken Vow]]". Họ đã viết lại ca khúc này với phần lời bài hát bằng tiếng Pháp dành riêng cho Evancho. Ý nghĩa của bài hát lúc đầu (về một tình yêu buồn) đã được thay đổi hoàn toàn trong phiên bản tiếng Pháp, trở thành một giấc mơ về thế giới tươi đẹp mà không có chiến tranh và nghèo đói.
 
Năm 2004, Fabian tham gia vào bộ phim ''[[De-Lovely]]'' của [[MGM]]. Trong đó, cô biểu diễn các bài hát "Another Openin', Another Show" (với dàn bè) và "So in Love" (cùng với [[Mario Frangoulis]]) từ vở nhạc kịch ''[[Kiss Me, Kate]]'' của [[Cole Porter]].
 
==Danh sách đĩa nhạc==
Dòng 205:
**1999 – Giải thưởng cho doanh số vượt 1 triệu đơn vị – cho ''Pure''<ref>{{chú thích tạp chí|last1=Sexton|first1=Paul|title=International: IFPI's Platinum Europe Awards Hit New Heights|journal=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]|date = ngày 12 tháng 2 năm 2000 |volume=112|issue=7|page=43|url=https://books.google.com.vn/books?id=4Q0EAAAAMBAJ&pg=PA43&lpg=PA43&dq=lara+fabian+pure+album+sales&source=bl&ots=7XfG4ONhIb&sig=D5Qf2eYalGG5WlcvikKlkXXvRH4&hl=vi&sa=X&ved=0ahUKEwjexeeL_o_XAhVETbwKHRivBo44FBDoAQhAMAQ#v=onepage&q=lara%20fabian%20pure%20album%20sales&f=false|accessdate = ngày 8 tháng 3 năm 2020 |publisher=Nielsen Business Media, Inc.|location=[[Luân Đôn]], [[Anh Quốc]]|language=tiếng Anh|issn=0006-2510}}</ref>
* '''Giải [[Victoires de la Musique]]'''
**1998 – Đề cử ở hạng mục Bài hát của năm – cho "[[Tout (bài hát)|Tout]]"<ref>{{chú thích tạp chí|last1=Bouton|first1=Remi|title=Changes In French Awards Gain Music Biz Approval|journal=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]|date = ngày 7 tháng 2 năm 1998 |volume=110|issue=6|page=91|url=https://books.google.com.vn/books?id=fQ0EAAAAMBAJ&pg=PA91&lpg=PA91&dq=lara+fabian+best+female+vocalist+billboard+8+february+1997&source=bl&ots=pY5Ue-5lAH&sig=ACfU3U044bKF3Zvg3APL06ZGJO5BwxaVSw&hl=vi&sa=X&ved=2ahUKEwi6y-Ty4ZLoAhULBKYKHZA8CWYQ6AEwDnoECAgQAQ#v=onepage&q=lara%20fabian%20best%20female%20vocalist%20billboard%208%20february%201997&f=false|accessdate = ngày 11 tháng 3 năm 2020 |publisher=Nielsen Business Media, Inc.|location=[[Paris]], [[Pháp]]|language=tiếng Anh|issn=0006-2510}}</ref>
**1998 – Nghệ sĩ mới của năm
**2003 – Đề cử ở hạng mục Ca khúc gốc của năm – cho "[[Tu es mon autre]]"<ref>{{chú thích web|title=Palmères 2003 - 18ème cérémonie des Victoires de la Musique|url=http://evenements.francetv.fr/emissions/les-victoires-de-la-musique/palmares-2003_568317|website=evenements.francetv.fr|publisher=[[France Télévisions]]|accessdate = ngày 11 tháng 5 năm 2020 |language=tiếng Pháp}}</ref>
* '''Women to Women Without Borders'''
**2000 – Huy chương Vàng
Dòng 222:
**2001 – Nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất<ref>{{chú thích tạp chí|last1=LeBlanc|first1=Larry|author-link=Larry LeBlanc|title=Nelly Furtado Sweeps Juno|journal=[[Billboard (tạp chí)|Billboard]]|date = ngày 17 tháng 3 năm 2001 |volume=113|issue=11|page=6|url=https://books.google.com.vn/books?id=RxQEAAAAMBAJ&pg=PA6&lpg=PA6&dq=lara+fabian+billboard+juno+awards+1997&source=bl&ots=Y-y198sXCV&sig=ACfU3U3WuU6UCe8ERhMWml7RgVf3hZ8BVA&hl=vi&sa=X&ved=2ahUKEwi32MTN45LoAhXPfd4KHUAwDOgQ6AEwB3oECAgQAQ#v=onepage&q=lara%20fabian%20billboard%20juno%20awards%201997&f=false|accessdate = ngày 11 tháng 3 năm 2020 |publisher=Nielsen Business Media, Inc.|location=[[Toronto]], [[Canada]]|language=tiếng Anh|issn=0006-2510}}</ref>
* '''Giải [[SOCAN]]'''<ref>{{chú thích web|title=SOCAN Awards Search for Lara Fabian|url=https://www.socan.com/what-socan-does/socan-awards/?wpv_post_search=Lara+Fabian&wpv_aux_current_post_id=204&wpv_view_count=1964-TCPID204|website=socan.com|publisher=[[Socan|SOCAN]]|accessdate = ngày 8 tháng 3 năm 2020}}</ref>
**1995 – Ca khúc pop/rock phổ biến nhất – cho "[[Lara Fabian (album năm 1991)|Il suffit d'un éclair]]"
**1996 – Ca khúc pop/rock phổ biến nhất – cho "[[Carpe diem (album của Lara Fabian)|Leïla]]"
**1998 – Ca khúc pop/rock phổ biến nhất – cho "[[Pure (album của Lara Fabian)|Humana]]"
**2004 – Giải thưởng thành tựu toàn cầu
{{col-end}}
Dòng 244:
{{S-start}}
{{Succession box
| before= [[Plastic Bertrand]]<br>với "[[Amour, Amour]]"
| title = [[Luxembourg trong Eurovision Song Contest|Đại diện cho Luxembourg trong Eurovision Song Contest]]
| years = [[Luxembourg trong Eurovision Song Contest năm 1988|1988]]
| after = [[Park Café]]<br>với "[[Monsieur (bài hát)|Monsieur]]"
}}
{{S-end}}