Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Không quân Quốc gia Khmer”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, General fixes using AWB
n clean up, replaced: Quân đội Bắc Việt → Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa using AWB
Dòng 1:
{{Infobox military unit
|unit_name= Không quân Quốc gia Khmer <br> ''Khmer National Air Force'' <br> ''Armée de l'Air Khmère''
|image= [[Tập tin:Flag of the Khmer Republic.svg|200px|]]
|caption= Quân kỳ Không quân Quốc gia Khmer (1970-1975)
|dates= 8 tháng 6, 1971 – 17 tháng 4, 1975
|country=
|allegiance= [[Tập tin:Flag of the Khmer Republic.svg|22px|]] [[Cộng hòa Khmer]]
|branch= [[Không quân]]
|type=
Dòng 50:
|aircraft_transport= [[Dassault MD 315 Flamant]], [[Aero Commander (máy bay)|Aero Commander]], [[Utva 56]], [[Antonov An-2 Colt|An-2]], [[Ilyushin Il-14|Il-14]], [[Douglas C-47 Skytrain|C-47]], [[Douglas C-54 Skymaster|Douglas C-54]], [[C-123 Provider|C-123K]], [[Alouette II]], [[Alouette III]], [[H-19 Chickasaw|H-19]], [[H-34 Choctaw|H-34]], [[Bell UH-1 Iroquois|UH-1]], [[Mil Mi-4|Mi-4]]
}}
'''Không quân Quốc gia Khmer''' ([[tiếng Pháp]]: ''Armée de l'Air Khmère'' – AAK; [[tiếng Anh]]: ''Khmer National Air Force'' - KNAF hoặc KAF) là [[quân chủng]] [[không quân]] [[Lực lượng Vũ trang Quốc gia Khmer|Quân lực Quốc gia Khmer]] (FANK) và là lực lượng quân sự chính thức của nước [[Cộng hòa Khmer]] trong cuộc [[nội chiến tại Campuchia|nội chiến Campuchia]] từ năm [[1970]]-[[1975]].
 
==Lịch sử==
===Hình thành 1954-1955===
Mặc dù liên đội non trẻ của [[Lục quân Quốc gia Khmer|Quân đội Hoàng gia Khmer]] được lên kế hoạch lần đầu tiên vào năm [[1952]] nhưng mãi đến ngày [[22 tháng 4]] năm [[1954]] thì '''Không quân Hoàng gia Khmer''' ([[tiếng Pháp]]: ''Aviation Royale Khmère'' – AVRK) mới chính thức thành lập dựa theo sắc lệnh của Hoàng thất Campuchia. Dưới sự chỉ huy của [[Đại tá]] [[Ngo Hou]], nguyên bác sĩ riêng của Hoàng thân [[Norodom Sihanouk]] là và được biết đến một cách mỉa mai là ‘Câu lạc bộ Hàng không Hoàng gia’.<ref>Conboy and Bowra, ''The War in Cambodia 1970-75'' (1989), p. 19.</ref> Không quân Hoàng gia Khmer ban đầu chỉ có một phi đội gồm bốn [[máy bay liên lạc]] [[Morane-Saulnier MS 500|Morane-Saulnier MS.500 Criquet]], hai [[máy bay chuyên dụng]] hạng nhẹ [[Cessna 180]], một máy bay cá nhân hạng nhẹ [[Cessna 170]] và một máy bay vận tải [[DC-3]] được sửa sang để chuyên chở yếu nhân (VIP). Ở giai đoạn này, Không lực Hoàng gia Khmer chưa phải là một quân chủng độc lập; vào lúc đầu, cán bộ nhân viên Không lực phải lấy từ bên Công binh qua, [[Bộ Quốc phòng (Pháp)|Bộ Quốc phòng]] đặt quân chủng Không quân Hoàng gia Khmer dưới sự kiểm soát hành chính của Tổng cục thanh tra Công binh quân đội.
 
===Phát triển 1955-1964===
Trong giai đoạn mở rộng lần đầu từ năm [[1955]]-[[1962]], Không quân Hoàng gia Khmer nhận được sự hỗ trợ từ [[Pháp]], [[Đế quốc Mỹ|Mỹ]], và [[Israel]] với việc cung cấp các chương trình huấn luyện, hỗ trợ kỹ thuật và máy bay bổ sung. Phái đoàn cố vấn viện trợ quân sự Mỹ (USMAAG) đã chuyển nhượng 14 chiếc máy bay huấn luyện [[North American T-6 Texan|T-6G Texan]], 8 máy bay trinh sát [[L-19 Bird Dog|Cessna L-19A Bird Dog]], 3 máy bay liên lạc [[L-20 Beaver|DHC L-20 Beaver]] và 7 máy bay vận tải [[Douglas C-47 Skytrain|C-47]] (sớm được gia nhập với thêm hai chiếc vận tải cơ C-47 mua từ Israel) cho phép Không quân Hoàng gia Khmer sở hữu một khả năng tấn công hạng nhẹ cũng như nâng cao công tác trinh sát và khả năng vận chuyển quân đội.
 
===Trung lập 1964-1970===
Các khóa huấn luyện máy bay đầu tiên trong nước bắt đầu vào tháng 10 năm 1954 bởi các huấn luyện viên [[người Pháp]] tại Trường huấn luyện Hàng không Hoàng gia mới được thành lập tại [[sân bay quốc tế Phnôm Pênh|sân bay Pochentong]] gần [[Phnôm Pênh]], dù các khóa sinh phi công người Khmer về sau đều được đưa sang Pháp. Vào [[tháng tám|tháng 8]] năm [[1964]], chương trình viện trợ USMAAG của Mỹ đã bị đình chỉ khi Campuchia vừa thông qua một chính sách trung lập, do đó Không quân Hoàng gia Khmer tiếp tục dựa vào viện trợ quân sự từ Pháp, nhưng đồng thời cũng quay sang phía [[Úc]], [[Liên Xô]] và [[Trung Quốc]] về khoản máy bay và huấn luyện.
 
Do thiếu hụt nguồn nhân lực và khí tài bay hạn chế, Không lực Khmer khó đảm bảo việc bảo vệ không phận quốc gia. Mặc dù có vài đường băng khác hơn Pochentong, thế nhưng chúng chỉ được sử dụng tạm thời như đường băng hạ cánh khẩn cấp và chẳng bao giờ làm thành căn cứ không quân thứ cấp. Do đó, không quân chỉ đơn thuần được coi là một lực lượng yểm trợ tác chiến nhằm cung cấp các dịch vụ vận chuyển hàng không cho các đơn vị bộ binh và thỉnh thoảng đóng vai trò không yểm cho các cuộc hành quân tác chiến trên bộ và trên biển.
Dòng 81:
====Vụ đột kích Pochentong====
Vào đêm ngày 21-22 [[tháng một|tháng 1]] năm [[1971]], khoảng 100 lính [[biệt kích|đặc công]] và [[công binh]] [[Miền Bắc (Việt Nam)|Bắc Việt]] đã vượt qua vành đai phòng thủ "Biệt khu Thủ đô" (RMS) do [[Lục quân Quốc gia Khmer|quân đội Campuchia]] thiết lập xung quanh [[Phnôm Pênh]] và thực hiện một cuộc đột kích ngoạn mục vào căn cứ không quân Pochentong. Toàn đội chia thành 6 phân đội nhỏ hơn được trang bị chủ yếu là súng trường [[AK-47]] và súng phóng tên lửa [[Súng chống tăng B41|RPG-7]], các đơn vị công binh Bắc Việt đã thành công trong việc bóc các lớp hàng rào kẽm gai và nhanh chóng áp đảo số lính trang bị kém của Tiểu đoàn an ninh làm nhiệm vụ đêm đó. Một khi vào được bên trong khu căn cứ, đội đặc công liền tung ra một đợt bắn chặn dữ dội bằng các loại súng nhỏ và [[súng phóng lựu]] chống lại bất kỳ máy bay nào mà họ tìm thấy trên khu vực đậu xe tiếp giáp với [[đường băng]] và các công trình gần đó; một trong những đội đặc công thậm chí còn trèo vào cạnh khu nhà ga thương mại của sân bay dân sự và sau khi chiếm giữ vị trí tại nhà hàng quốc tế bên trên mái nhà, họ bắn một quả tên lửa vào kho chứa bom [[napan|napalm]] gần thềm để máy bay [[Không lực Việt Nam Cộng hòa]].
 
===Tái tổ chức 1971-1972===
Hàng loạt căn cứ không quân mới được thành lập tại Battambang (Phi trường 123), Kompong Cham (Phi trường 125), Kompong Chnang (Phi trường 124) và Ream (Phi trường 122) trong khi các sân bay thứ cấp và sân bay trực thăng các loại được thiết lập ở [[Kam pốt|Kampot]], [[Udong]], [[KompongThom]] và [[Stung Mean Chey]] gần Phnôm Pênh.
 
===Mở rộng 1972-1974===
Dòng 102:
==Chiến sử==
===Tham chiến 1971-1973===
Ngày [[7 tháng 10]] năm [[1972]], Bắc Việt một lần nữa lại tung thêm lực lượng [[biệt kích|đặc công]] thực hiện đòn tấn công bí mật vào [[Phnôm Pênh]], gồm khoảng 103 người thuộc [[Trung đoàn đặc công 367 Quân đội Nhân dân Việt Nam]] đột kích vào Bộ Tư lệnh Thiết kỵ [[Lục quân Quốc gia Khmer]] đóng tại [[Sân vận động Olympic quốc gia Phnôm Pênh|sân vận động Olympic]] ở vùng ngoại ô phía bắc thủ đô Campuchia, nơi đặt bãi đậu xe thiết giáp trong nhà.<ref>Conboy and Bowra, ''The War in Cambodia 1970-75'' (1989), p. 37.</ref><ref>Conboy and McCouaig, ''South-East Asian Special Forces'' (1991), pp. 53-54.</ref><ref>Conboy, ''FANK: A History of the Cambodian Armed Forces, 1970-1975'' (2011), p. 194.</ref><ref>Serra, ''L’armée nord-vietnamienne, 1954-1975 (2e partie)'' (2012), p. 38.</ref> Quân đội Bắc [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] thậm chí đã chiếm được bảy chiếc xe thiếp giáp bộ binh [[M-113]] APC và lái chúng ra ngoài xếp thành đội hình tiến vào các đường phố của thủ đô, khiến dân chúng hoảng loạn cực độ. Bị bất ngờ lúc đầu, Quân đội Campuchia đã phải mất vài giờ để ổn định tình hình, lập lại trật tự và yêu cầu không yểm khẩn cấp. Không quân Quốc gia Khmer đáp lại bằng cách điều hai chiếc gunship AC-47 tới yểm trợ bộ binh bằng hỏa lực đã thành công trong việc vô hiệu hóa các chiếc M-113 APC, chặn đứng nhóm quân đối phương trước khi họ có thể tiến tới trung tâm thành phố, tại đây hai bên xảy ra một trận đụng độ dữ dội khiến 83 lính đặc công Bắc Việt thiệt mạng và đám tàn quân còn lại.<ref>Conboy, Bowra, and McCouaig, ''The NVA and Viet Cong'' (1992), pp. 12-13.</ref><ref>Grandolini, ''Armor of the Vietnam War (2): Asian Forces'' (1998), pp. 65-66.</ref>
 
Không quân Quốc gia Khmer đã thực hiện trót lọt một phi vụ oanh tạc lớn vào [[tháng ba|tháng 3]] năm [[1974]], khi một phi đội 10 máy bay ném bom T-28 do máy bay chỉ điểm điều không tiền phương (FAC) [[Cessna O-1 Bird Dog|Cessna O-1D Bird Dog]] dẫn đường đánh phá điểm trung chuyển [[Dambe, Campuchia|Dambe]] của Bắc Việt thuộc địa phận [[tỉnh Kratié (tỉnh)|Kratie]], nơi khoảng 250 xe tải tiếp tế chất đầy đạn dược được dấu trong một đồn điền gần đó. Sau khi các viên phi công Không lực Quốc gia Khmer lái chiếc T-28 đã thả hàng loạt bom 110&nbsp;kg (250&nbsp;lb) xuống khu đồn điền, chúng đột nhiên gây kích động một phản ứng dây chuyền bạo lực đó - dựa trên việc phân tích các tấm hình do thám trên không sau cuộc tấn công cho thấy có ít nhất 125 xe tải bị phá hủy, được xem là một kỷ lục trong [[chiến tranh Việt Nam]].<ref name="autogenerated1970">Conboy and Bowra, ''The War in Cambodia 1970-75'' (1989), p. 21.</ref><ref>Conboy, ''FANK: A History of the Cambodian Armed Forces, 1970-1975'' (2011), p. 221.</ref>
===Bất ổn 1973-1974===
Ngày [[17 tháng 3]] năm [[1973]], viên phi công Không lực Quốc gia Khmer ủng hộ Sihanouk bất mãn chính phủ cộng hòa là Đại úy không quân [[So Patra]], đã tự mình lái chiếc máy bay chiến đấu thả bom T-28D bay vào khu trung tâm thủ đô Phnôm Pênh và bất chợt bổ nhào xuống ném bom [[Dinh Tổng thống]] tại [[Chamkarmon (quận)|quận Chamkarmon]]. Tổng cộng vụ đánh bom đã khiến 43 người thiệt mạng và 35 người bị thương, sau đó viên phi công này đã bay tới trốn tại [[đảo Hải Nam]] thuộc vùng [[Biển Đông|biển Nam Trung Hoa]].<ref>Conboy and Bowra, ''The War in Cambodia 1970-75'' (1989), p. 20.</ref><ref>Conboy, ''FANK: A History of the Cambodian Armed Forces, 1970-1975'' (2011), p. 219.</ref>
 
Ngày [[19 Tháng 11]] năm 1973, Dinh Tổng thống lại bị oanh tạc một lần nữa bởi viên phi công bất đồng chính kiến là Trung úy không quân [[Pich Lim Khun]], người sau đó đã lái chiếc T-28D bỏ trốn sang địa phận tỉnh Kratie do [[Khmer Đỏ]] kiểm soát.<ref name="autogenerated1970"/><ref>Conboy, ''FANK: A History of the Cambodian Armed Forces, 1970-1975'' (2011), p. 220.</ref> Hậu quả của vụ không kích lần này khiến cho Tổng thống [[Lon Nol]] phải tiến hành đợt thanh trừng những thành phần Không lực Quốc gia Khmer bị xem là không trung thành hoặc thân cộng sản.
 
Ngày [[14 tháng 4]] năm 1974, lại xảy ra một vụ việc tương tự, một viên phi công đào ngũ là [[Khiev Yos Savath]] đã cố gắng tiến hành một vụ không kích nhằm ám sát Tổng thống Cộng hòa Khmer. Sáng hôm đó, máy bay chiến đấu thả bom T-28D do kẻ đào ngũ lái đã ném bốn quả bom 110&nbsp;kg (250&nbsp;lb) xuống trụ sở Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Quốc gia Khmer (EMG). Chốc lát nó đã hạ cánh khoảng 60 feet (19 mét) từ nơi mà Trung tướng [[Sak Sutsakhan]] đang chủ trì một cuộc họp nội các. Mặc dù các quan chức kịp thời thoát ra ngoài, thế nhưng loạt bom đã cướp đi mạng sống của bảy người và khiến nhiều người khác bị thương, gây chấn động dư luận trong và ngoài nước một thời gian dài.<ref>http://www.mail-archive.com/camdisc@googlegroups.com/msg09009.html</ref>
===Suy vong 1974-1975===
Chỉ vào những tháng cuối cùng của cuộc chiến mà Không quân Quốc gia Khmer cuối cùng cũng vượt quá tất cả các thành tích trước đó. Tận dụng tối đa ưu thế trên không của mình, Không lực Quốc gia Khmer sử dụng tất cả các khung máy bay có giới hạn khác nhau, từ máy bay chiến đấu thả bom T-28D, trực thăng vũ trang UH-1G, gunship AC-47D và AU-24A cùng máy bay huấn luyện phản lực T-37B được chuyển đổi sang vai trò cường kích, và ngay cả máy bay vận tải C-123K cũng chuyển thành máy bay ném bom hạng nặng ứng biến – tung ra một số phi vụ chiến đấu chưa từng có nhằm chống lại các lực lượng Khmer Đỏ đang tập trung quanh Phnôm Pênh. Hoạt động chống lại lưới lửa phòng không tương đối yếu của đối phương, viên phi công T-28 người Campuchia đã bay hơn 1.800 phi vụ vào ban ngày trong khoảng thời gian hai tháng một mình trong khi AU-24 và C-123 lại thực hiện các phi vụ ném bom vào ban đêm chống lại các vị trí tên lửa 107mm mà đối phương cố thủ ở phía bắc thủ đô.<ref name="autogenerated22">Conboy and Bowra, ''The War in Cambodia 1970-75'' (1989), p. 22.</ref>
 
Bên cạnh các phi vụ chiến đấu, Không quân Quốc gia Khmer cũng tham gia trong các nỗ lực sơ tán vào phút cuối. Ngày [[12 tháng 4]] năm [[1975]], mấy chiếc T-28 và UH-1 còn tiến hành yểm trợ cuộc di tản của Đại sứ quán Mỹ trong [[chiến dịch Eagle Pull]]. Bộ Tư lệnh Không quân Quốc gia Khmer còn giữ lại bảy chiếc trực thăng vận tải UH-1H dự phòng tại một sân bay trực thăng ứng biến gắn trên các căn cứ của Sân vận động quốc gia ở Phnôm Pênh tại khu liên hợp thể thao Cércle Sportif, sẵn sàng sơ tán các thành viên chủ chốt của chính phủ.<ref>Conboy and McCouaig (1991), p. 15.</ref> Tuy nhiên, ba trong số bảy chiếc trực thăng đã bị bỏ lại do trục trặc kỹ thuật khi đợt di tản cuối cùng diễn ra vào buổi sáng ngày 17 tháng 4.<ref>Sutsakhan, ''The Khmer Republic at War and the Final Collapse'' (1980), p. 169.</ref> Một trong số các nhóm quan chức cấp cao di tản lên bốn chiếc trực thăng còn lại bay đến [[Kampong Thom (tỉnh)|Kompong Thom]] chính là Tư lệnh không quân Quốc gia Khmer [[Ea Chhong]].<ref name="autogenerated223">Conboy, ''FANK: A History of the Cambodian Armed Forces, 1970-1975'' (2011), p. 223.</ref>
 
Bất chấp những nỗ lực tốt nhất của họ, Không quân Quốc gia Khmer quá căng thẳng một mình khó mà ngăn chặn sự thất bại của quân đội Campuchia và đẩy lui làn sóng tiến công của lực lượng Khmer Đỏ. Ngày 16 tháng 4, những chiếc T-28 Không lực Quốc gia Khmer xuất kích chiến đấu lần cuối cùng bằng cách ném bom Trung tâm kiểm soát Không quân và nhà chứa máy bay tại [[Sân bay quốc tế Phnôm Pênh|Pochentong]] để tránh rơi vào tay các đơn vị quân nổi dậy. Sau khi dùng hết hầu như toàn bộ đồ quân nhu dự phòng, 97 máy bay<ref name="autogenerated22"/><ref name="autogenerated223"/> bao gồm 50 T-28D, 13 UH-1H, 12 O-1D, 10 C-123K, 7 AC-47D, 3 AU-24A, 9 C-47 và T-41D –sẽ lần lượt do các phi hành đoàn bay ra khỏi các khu căn cứ không quân Pochentong, Battambang, Kompong Cham, Kompong Thom, Kompong Chnang và Ream (với một số nhỏ người tị nạn dân sự trên khoang) ẩn náu an toàn ở nước láng giềng [[Thái Lan]].<ref name="aeroflight1970"/>
Dòng 125:
Đến năm 1975, Không quân Quốc gia Khmer thiệt hại tổng cộng 100 máy bay, chủ yếu là do chiếu đấu tiêu hao, tai nạn huấn luyện và đào ngũ, cũng như với các nguyên nhân khác – từ [[tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1971]] và [[tháng giêng|tháng Giêng]] năm [[1972]], bốn chiếc trực thăng hạng nhẹ Alouette II và một chiếc Alouette III được gửi ra nước ngoài để bảo trì và tổng kiểm tra tại [[Công ty Công trình Phi cơ Hồng Kông]] (HAECO) ở [[Hồng Kông]], nhưng chẳng có hồ sơ ghi lại những chiếc khung máy bay này đã bao giờ trở lại Campuchia.<ref name="autogenerated218"/>
 
Khmer Đỏ đã tiếp quản nhằm tận dụng ít nhất 22 máy bay ném bom T-28D, bốn máy bay huấn luyện GY-80, 10 máy bay huấn luyện phản lực T-37, chín máy bay huấn luyện T-41D, bảy máy bay vận tải C-123K, chin gunship cỡ nhỏ AU-24, sáu gunship AC-47D, 14 máy bay vận tải C-47, 20 trực thăng UH-1H và UH-1G và ba chiếc trực thăng hạng nhẹ Alouette III, mặc dù bảo dưỡng kém và thường xuyên thiếu phụ tùng thay thế có nghĩa là chỉ có một số ít các khung máy bay vẫn còn có thể dùng được vào cuối những năm 1970.<ref name="autogenerated223"/>
 
==Chỉ huy==
Dòng 137:
===Quân phục ngụy trang===
Bộ đồ bay ngụy trang mẫu "[[Mẫu ERDL|cao nguyên]]" mua riêng của Thái được phi hành đoàn gunship [[Douglas AC-47D Spooky]] Không lực Quốc gia Khmer sử dụng trong một số dịp, chẳng hạn như đợt các thành viên của tổ bay đầu tiên được gửi đến huấn luyện gunship tại căn cứ không quân Udorn ở [[Thái Lan]] vào tháng 5-6 năm 1973.<ref>Conboy and Bowra, ''The War in Cambodia 1970-75'' (1989), p. 43, Plate E1.</ref><ref>Davis and Greer, ''Gunships, A Pictorial History of Spooky'' (1982), p. 14.</ref>
 
===Giày trận===
Dòng 166:
|Aviateur de première classe
|Airman
|<center>[[Tập tin:Première classe.png|50px]]<center/center>
|-
|Niey too
Dòng 173:
|Caporal
|Airman 1st Class
|<center>[[Tập tin:Caporal.png|50px]]<center/center>
|-
|Niey aek
Dòng 180:
|Caporal-chef
|Senior Airman
|<center>[[Tập tin:Caporal-chef.png|50px]]<center/center>
|-
|Pʊəl baal trəy
Dòng 187:
|Sergent
|Staff Sergeant
|<center>[[Tập tin:Sergent appelé.png|50px]]<center/center>
|-
|Pʊəl baal too
Dòng 194:
|Sergent-chef
|Master Sergeant
|<center>[[Tập tin:Sergent-chef.png|50px]]<center/center>
|-
|Pʊəl baal aek
Dòng 201:
|Adjudant
|Chief Master Sergeant
|<center>[[Tập tin:Adjudant.png|50px]]<center/center>
|-
|Prɨn baal too
Dòng 208:
|Sergent-chef
|Warrant Officer
|<center>[[Tập tin:Adjudant-chef.png|50px]]<center/center>
|-
|Prɨn baal aek
Dòng 215:
|Aspirant
|Chief Warrant Officer
|<center>[[Tập tin:Aspirant de l'armée de terre.png|50px]]<center/center>
|-
|Aknu trəy
Dòng 222:
|Sous-lieutenant
|2nd Lieutenant
|<center>[[Tập tin:Sous-lieutenant.png|50px]]<center/center>
|-
|Aknu too
Dòng 229:
|Lieutenant
|1st Lieutenant
|<center>[[Tập tin:Lieutenant.png|50px]]<center/center>
|-
|Aknu aek
Dòng 236:
|Capitaine
|Captain
|<center>[[Tập tin:Capitaine.png|50px]]<center/center>
|-
|Vorak trəy
Dòng 243:
|Commandant
|Major
|<center>[[Tập tin:Commandant.png|50px]]<center/center>
|-
|Vorak too
Dòng 250:
|Lieutenant-Colonel
|Lieutenant Colonel
|<center>[[Tập tin:Lieutenant-colonel.png|50px]]<center/center>
|-
|Vorak aek
Dòng 257:
|Colonel
|Colonel
|<center>[[Tập tin:Colonel.png|50px]]<center/center>
|-
|Utdɑm trəy
Dòng 264:
|Général de brigade aérienne
|Brigadier-General
|<center>[[Tập tin:Brigadier des armées.png|50px]]<center/center>
|}
 
Dòng 280:
 
==Chú thích==
{{Tham khảo}}
 
==Tham khảo==