Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Án văn tự đầu đời Minh”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Cheers!-bot (thảo luận | đóng góp)
nKhông có tóm lược sửa đổi
n Alphama Tool, General fixes
Dòng 3:
==Người quăng lưới đầu tiên đời Minh==
[[Tập tin:Hongwu1.jpg|nhỏ|phải|150px|Minh Thái Tổ.]]
Theo cách gọi của các nhà nghiên cứu văn học, thì [[Minh Thái Tổ]] (1328-1398) tức ''Chu Nguyên Chương'', chính là người quăng lưới “ngục"ngục văn tự”tự" đầu tiên trong triều đại do ông khai sáng (1368-1644).
 
Chu Nguyên CHương, lúc trẻ nghèo khổ, ít học, từng làm sư ở [[chùa Hoàng Giác]]. Trong cao trào khởi nghĩa nông dân, ông đi theo quân [[Hồng Cân]] (Khăn đỏ) do [[Quách Tử Hưng]] chỉ huy. Đến khi Tử Hưng mất, Nguyên Chương lên thay, tôn Tiểu Minh Vương là [[Hàn Lâm Nhi]] làm thủ lĩnh. Sau khi tấn công Tập Khánh (nay là [[Nam Kinh]]), Nguyên Chương được phong là Ngô Quốc Công.
 
Lúc đầu, Nguyên Chương biết tôn trọng hiền sĩ, biết nghe theo đề nghị của Chu Thăng “xây"xây tường cao, tích lương nhiều, hoãn việc xưng vương”vương", song ngay sau khi tiêu diệt được [[Trần Hữu Lượng]], cũng là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa khác chống [[nhà Nguyên|Nguyên]], Nguyên Chương liền tự xưng là Ngô Vương, phát tán cáo trạng nguyền rủa quân Hồng Cân mà mình từng theo là “yêu"yêu nghiệt”nghiệt" và sai người giết chết Hàn Lâm Nhi.
 
Tiếp đó, Nguyên Chương đánh bại một đội quân khởi nghĩa khác, khiến tướng chỉ huy là [[Trương Sĩ Thành]] phải tự sát.
Dòng 20:
 
Học giả [[Nguyễn Hiến Lê]] có ý kiến tương tự:
:''Cũng như [[Lưu Bang]], vì ít học, nên ông (Chu Nguyên Chương) nghi kỵ các văn thần... Sử chép có người khen ông là biết “đạo”"đạo", ông hiểu là mỉa ông làm “đạo"đạo tặc”tặc". Một người khác nịnh ông là làm “tăng"tăng trí tuệ lên”lên" (tăng trí), ông cho rằng chê ông có cái trí tuệ của thầy tăng (nhà sư)...Ông là ông vua Hán độc tài nhất trong lịch sử Trung Hoa, không kém [[Tần Thủy Hoàng]]''<ref>Nguyễn Hiến Lê, ''Sử Trung Quốc'' (tập 2). Nxb Văn hóa, 1997, tr. 119.</ref>.
 
Trong một bài viết trên ''Nguyệt san Pháp Luật'' [[Thành phố Hồ Chí Minh]], thì cho rằng ''có một võ tướng đã to nhỏ với Chu Nguyên Chương rằng thiên hạ này là do nhà vua chinh chiến, trải bao hiểm nguy khó nhọc mới giành được; ngược lại, giới văn nhân ngồi không mà được hưởng. Và nếu phải dùng họ thì không nên quá tin vì giới văn nhân thường xoi mói, châm chọc, phỉ báng. Như Trương Sỹ Thành cả đời sủng ái văn nhân, cho họ có nhà cao cửa rộng…vậy mà khi nhờ chọn tên, họ lại chọn cho ông ta cái tên: Sỹ Thành. Viên tướng này giải thích: Trong sách [[Mạnh Tử]], xưa có câu “Sỹ"Sỹ, thành tiểu nhân dã”dã" (người kẻ sĩ thành ra kẻ tiểu nhân vậy). Cũng có thể dời dấu phẩy thành “Sỹ"Sỹ Thành, tiểu nhân dã”dã" (Sỹ Thành là kẻ tiểu nhân). Câu chửi trích từ lời thánh hiền xưa, đến chết y cũng không vỡ lẽ ra, thật là đáng thương. Kể từ đó, Chu Nguyên Chương rất chú ý tới những bản tấu sớ do quần thần dâng lên, nghiền ngẫm từng câu từng chữ xem có ý phạm thượng nào không...''<ref name="HC">Hữu Cường,'' Những vụ án văn tự đầu đời Minh'' trên Nguyệt san Pháp luật: [http://phapluattp.vn/2009121303049871p0c1112/nhung-vu-an-van-tu-dau-doi-minh.htm].</ref>
 
===Lược kể một vài vụ án===
Dòng 28:
 
====Dưới thời Minh Thái Tổ====
Giáo thụ [[Chiết Giang]] là [[Lâm Nguyên Lượng]], Huấn đạo Bắc Bình là [[Triệu Bá Ninh]], Huấn đạo [[Phúc Châu]] là [[Lâm Bá Cảnh]], Học chính Phong Châu là [[Mạnh Thanh]]...đều phạm tội, đơn giản chỉ vì trong các bài biểu họ viết hộ cho quan trên dâng lên vua có hai chữ “tác"tác tắc”tắc", mà chữ " tắc”tắc" (phép tắc) đọc na ná như " tặc”tặc" (giặc), nên Chu Nguyên Chương cho rằng “tác"tác tắc”tắc" không phải để ca ngợi mà ám chỉ ông ngày trước là “đạo"đạo tặc”tặc" (bọn trộm cướp), nghịch tặc (kẻ phản nghịch), gian tặc (kẻ chuyện làm chuyện giả dối bất lương) và làm giặc! Thế là cả những người viết hộ và người dâng biểu đều bị lôi ra chém chết.
 
Tương tự, Hàng Châu phủ học giáo thụ là [[Hứa Nhất Khởi]] làm bài biểu tấu chúc mừng trong có câu “Quang"Quang thiên chi hạ, thiên sinh thánh nhân, vi thế tác tắc”tắc" (Dưới trời sáng láng, trời sinh thánh nhân, làm khuôn phép cho đời). Nguyên Chương đọc xong, liền xử tội chết vì cho rằng câu văn trên Nhất Khởi đã ám chỉ mình là tăng, là giặc. Bởi theo vua Minh, thì chữ “thánh"thánh nhân”nhân" có ý nói ông là “tăng"tăng nhân”nhân" (hai chữ đọc cùng âm), là trọc đầu (“quang”"quang" gợi đến chữ " quang đầu”đầu" có nghĩa trọc đầu) và là giặc (“tắc”"tắc" cùng âm với “tặc”"tặc").
 
Tương tự, Giáo thụ huyện Úy Thị tên [[Hứa Nguyên]] cũng làm bài biểu tấu mừng, trong đó có tám chữ “Thể"Thể càn pháp khôn, tào sức thái bình”bình" (Thể chế như trời phép tắc như đất, trau chuốt làm đẹp cảnh thái bình). Chu Nguyên Chương suy ra cho rằng “pháp"pháp khôn”khôn" nghĩa là hình phạt cạo trọc đầu và “Tảo"Tảo sức thái bình”bình"“Tảo"Tảo thất thái bình”bình", có nghĩa sớm sẽ gặp binh đao loạn lạc. Vậy là Hứa Nguyên bị lôi ra xử tùng xẻo.
 
Thấy vậy, quan chức bộ Lễ đến xin Minh Thái Tổ hãy giáng một đạo dụ, để thần dân cứ theo thế mà theo.
Dòng 40:
Năm Hồng Vũ thứ ba cấm dân chúng đặt tên cho con là ''Thiên, Quốc, Quân, Thánh, Thần.''
Năm Hồng Vũ thứ 26 lại cấm dân trăm họ đặt tên là ''Thái Tổ, Thánh Tôn, Long Tôn, Hoàng Tôn, Thái Thúc''. Thậm chí cả những danh từ dân gian quen dùng vẫn bị cấm. Ví dụ như “y"y sinh”sinh" (thầy thuốc. Chữ “sinh”"sinh" đọc giống chữ “tăng”"tăng") chỉ được gọi là y sĩ, y nhân, y giả...<ref name="HC" />
 
GS. Nguyễn Khắc Phi cũng đã kể mấy mẩu chuyện như sau:
Dòng 46:
[[Cao Khải]] (1330-1374), người [[Tô Châu]], được xem là một nhà thơ lớn nhất đời Minh. Cuối đời Nguyên, ông ở ẩn bên dòng sông Ngô Tùng. Đầu đời Minh, năm Hồng Vũ thứ hai, được tiến cử biên soạn bộ Minh sử, ông đành miễn cưỡng vào kinh. Năm sau Chu Nguyên Chương ban cho ông chức quan cao là Hữu thị lang bộ Hộ, song ông nhất quyết từ chối, chỉ một mực xin được về quê, nên nhà vua giận lắm.
 
Sau, Tri phủ Tô Châu là [[Ngụy Quan]] xây dựng phủ đường trên nền cung điện của Trương Sĩ Thành, bị Nguyên Chương xử chém ngang lưng vì cho thế là phạm tội đại nghịch. Khi tra xét án, biết được lúc dựng phủ đường này, Cao Khải có làm một bài văn trong đó có bốn chữ “hổ"hổ cứ long bàn”bàn" (hổ ngồi rồng nằm), Chu Nguyên Chương tức giận vì cho thế là Cao Khải đã xui Ngụy Quan chống lại mình. Cái giận cũ chưa nguôi nay lại thêm cái giận mới, cho nên Nguyên Chương ra lệnh chém Cao Khải ngang lưng giữa thành phố Nam Kinh, rồi còn sai xẻ thây làm 8 mảnh. Ngoài Cao Khải, các văn nhân rất nổi tiếng khác như Đới Lương, Trương Mạnh Kiêm cũng vì thơ văn phạm húy mà bị giết...
 
Một nhà sư hiệu là Thủ Nhân ở núi Tứ Minh (Chiết Giang), được triệu về kinh. Ở đây, ông có làm bài thơ nhan đề là ''Phỉ thúy'' (Chim trả) như sau:
Dòng 64:
 
Một nhà thơ khác, hiệu là Đức Tường ở [[Tiền Đường]] cũng được triệu về kinh, rồi cũng vì một bài thơ ''Hạ nhật tây viên'' (Vườn phía tây ngày hè) mà bị chém.
Nhà vua chất vấn từng câu một, trong đó có câu 2 như thế này: "Nhiệt thời vô xứ khá thừa lương". Đọc xong, nhà vua hỏi: ''nhà ngươi nói “lúc"lúc trời oi bức không có chỗ hóng mát”mát", có phải là phúng thích hình pháp của ta quá nghiêm khắc không?...''
 
Có lần, Chu Nguyên Chương đi thăm một ngôi chùa, thấy trên tường có người đề bài thơ như sau:
Dòng 96:
Chu Nguyên Chương mất, con là [[Chu Lệ]] (được phong làm Yên Vương) kéo quân về tranh ngôi với cháu là Chu Doãn Văn. Tranh đoạt được, Chu Lệ xưng là [[Minh Thành Tổ]], rồi ra lệnh giết hàng loạt quan lại trung thành với Chu Doãn Văn. Tình hình chính trường rất thẳng, lưới văn tự lại càng nghiêm ngặt.
 
Bấy giờ, có một danh sĩ rất mọi người được trọng vọng, đó là [[Phương Hiếu Nhụ]] (hay Hiếu Nho), người Chiết Giang. Chu Lệ cho mời vào buộc phải viết “chiếu"chiếu lên ngôi”ngôi". Vị Văn học bác sĩ này không chịu làm, vua dọa giết hết cửu tộc. Hiếu Nhụ đáp: ''Dẫu giết hết mười tộc cũng không viết''.
Vua đưa bút ép, Hiếu Nhụ viết lớn bốn chữ: ''Yên tặc thoán vị'' (Giặc Yên cướp ngôi). Nhà vua nổi giận, sai phanh thây Phương Hiếu Nhụ ở chợ, giết hết chín tộc rồi còn cho giết cả con em của những bộ hạ cho đủ mười tộc, đúng như lời Hiếu Nhụ thách thức! Số người chết trong vụ án này, già trẻ trước sau bị giết tới mấy trăm người.