Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Gary Moore”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n →‎Đời tư: thay thế để bớt lặp từ "ở"
(không hiển thị 14 phiên bản ở giữa của cùng người dùng)
Dòng 30:
 
== Thân thế ==
Robert William Gary Moore chào đời tại [[Belfast]] vào ngày 4 tháng 4 năm 1952,<ref name="BelfastTelegraph">{{Chú thích web | url=https://www.belfasttelegraph.co.uk/entertainment/music/news/moores-almanac-,13444722.html | title=Moore's almanac | publisher=Belfast Telegraph | date=2 tháng 5 năm 2007| access-date=ngày 7 tháng 7 năm 2020 | url-status=dead | archive-url=https://web.archive.org/web/20110814034807/http://www.belfasttelegraph.co.uk/entertainment/music/news/moores-almanac-13444722.html | archive-date=14 tháng 8 năm 2011| df = dmy-all }}</ref><ref name="Guardian">{{chú thích web |url=https://www.theguardian.com/music/2011/feb/07/gary-moore-obituary |title=Gary Moore obituary |date=7 tháng 2 năm 2011|author=Adam Sweeting |work=The Guardian |access-date=25 tháng 8 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> là con trai của [[bà nội trợ]] Winnie và ông Robert Moore - một nhà [[Người lăng xê|nhà quảng bá âm nhạc]] điều hành phòng khiêu vũ Queen's Hall ở [[Hollywood]].<ref name="BelfastTelegraph"/><ref name="Guardian"/><ref name="BBC">{{chú thích web |url=https://www.bbc.com/news/uk-northern-ireland-12881549 |title= Thin Lizzy's Gary Moore in candid BBC One documentary |date=ngày 2 tháng 3 năm 2011|author=Pierre Perrone |publisher=BBC |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Ông lớn lên gần [[điền trang Stormont]] của Belfast cùng 4 anh chị em.<ref name="Guardian"/> Ông ghi ơn cha mình vì đưa ông bắt đầu đến với âm nhạc. Năm Moore 6 tuổi, cha ông mời con trai mình lên sân khấu hát bài "[[Sugartime]]" với một ban nhạc chuyên [[bản hát lại|cover]] tại sự kiện mà ông tổ chức, sự kiện ấy lần đầu khơi dây niềm yêu thích âm nhạc trong con người Moore. Người cha mua cho Moore cây guitar đầu tiên là chiếc acoustic cũ của hãng [[Framus]], khi Moore mới 10 tuổi.<ref name="Guardian"/><ref name="Independent">{{chú thích web |url=https://www.independent.co.uk/news/obituaries/gary-moore-virtuoso-guitarist-who-had-his-biggest-hits-with-phil-lynott-and-thin-lizzy-2207348.html |title= Gary Moore: Virtuoso guitarist who had his biggest hits with Phil Lynott and Thin Lizzy |date=8 tháng 2 năm 2011 |author=Pierre Perrone |publisher=Independent |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref><ref>{{chú thích web |url=https://www.vintageguitar.com/2940/gary-moore/ |title= Gary Moore – Back to the Rock |author= Willie G. Moseley |publisher=Independent |access-date=1 tháng 9 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Dẫu là người thuận tay trái, ông lại học chơi nhạc cụ bằng tay phải.<ref name="Independent"/> Không lâu sau, ông lập nên ban nhạc đầu tiên của mình với cái tên The Beat Boys, nhóm chủ yếu thể hiện các ca khúc của [[The Beatles|Beatles]].<ref name="Guardian"/><ref name="Independent"/> Sau đó ông đầu quân cho nhóm Platform Three and The Method cùng nhiều nhóm nhạc khác.<ref>{{chú thích báo |url=https://www.belfasttelegraph.co.uk/entertainment/news/is-this-you-pictured-with-13-year-old-gary-moore-28588314.html |title= Is this you pictured with 13-year-old Gary Moore? |publisher=Belfast Telegraph |author=Ivan Little |newspaper= Belfasttelegraph |date=14 tháng 2 năm 2011 |access-date=18 tháng 9 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Trong khoảng thời gian này, ông kết bạn với nghệ sĩ guitar [[Rory Gallagher]], người thường biểu diễn cùng nơi với ông.<ref>{{chú thích web |url=https://www.hotpress.com/music/gary-moore-remembers-rory-gallagher-14356584 |title= Gary Moore remembers Rory Gallagher |publisher=Hot Press |date=11 tháng 6 năm 2015 |access-date=1 tháng 9 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Ông rời Belfast để tới [[Dublin]] vào năm 1968 ngay khi nổ ra [[Xung đột vũ trang tại Bắc Ireland|cuộc xung đột vũ trang]] ở Bắc Ireland. Một năm sau, cha mẹ ông ly thân.<ref name="BelfastTelegraph"/><ref name="BBC"/>
 
== Sự nghiệp ==
Dòng 59:
Năm 1975, Moore gia nhập nhóm nhạc progressive [[jazz fusion]] [[Colosseum II]] được thành lập sau khi ban nhạc cũ [[Colosseum (ban nhạc)|Colosseum]] của thủ lĩnh [[Jon Hiseman]] giải tán. Moore thu âm 3 album cùng nhóm nhạc, trước khi rời đi để đầu quân cho Thin Lizzy vào năm 1978.<ref name="HotPress"/><ref name="AllMusic">{{chú thích web |url=https://www.allmusic.com/artist/gary-moore-mn0000050034/biography |title= Gary Moore – Biography & History |author=Greg Prato |publisher=AllMusic |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Trong lúc sống ở Los Angeles vào năm 1979, Moore lập nên ban nhạc G-Force cùng Glenn Hughes và [[Mark Nauseef]].<ref name="Louder"/><ref name="GForce">{{chú thích web |url=https://www.allmusic.com/album/g-force-mw0000191082 |title= Gary Moore / Gary Moore & G-Force – G-Force |author=Lars Lovén |publisher=AllMusic |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Tuy nhiên Hughes sớm bị thế chỗ bởi Willie Dee và [[Tony Newton (nhạc công)|Tony Newton]] do dính dáng đến vấn đề say xỉn.<ref>{{chú thích web |url=https://www.blabbermouth.net/news/glenn-hughes-remembers-gary-moore/ |title= GLENN HUGHES Remembers GARY MOORE |publisher=Blabbermouth.net |date=10 tháng 3 năm 2012 |access-date=4 tháng 4 năm 2021| df = dmy-all }}</ref><ref name="ClassicRock">{{chú thích tạp chí |author=Mick Wall |date=tháng 5 năm 2021 |title= The 100 Most Influential Guitar Heroes: Gary Moore |magazine=[[Classic Rock (tạp chí)|Classic Rock]] |issue=287 |pages=52{{ndash}}56 |publisher=Future Publishing | location=Luân Đôn, Anh}}</ref> Cùng lúc ấy, Moore nhận được lời mời tham gia ban nhạc của [[Ozzy Osbourne]]. Dẫu Moore đã từ chối, song G-Force lại giúp Osbourne đi tuyển các nhạc công khác cho ban nhạc của Ozzy.<ref name="Louder"/><ref name="GimmeMoore"/> Sau đấy G-Force phát hành [[G-Force (album)|album đầu tay trùng tên]] vào năm 1980, và đi lưu diễn mở màn cho [[Whitesnake]]. Tuy nhiên trước khi hết năm thì ban nhạc lại tan rã.<ref name="GForce"/><ref name="ClassicRock"/> Rồi Moore được kết nạp vào vị trí chơi guitar trong ban nhạc solo của Greg Lake. Họ cùng nhau thu âm hai album phòng thu là ''[[Greg Lake (album)|Greg Lake]]'' (1981) và ''[[Manoeuvres]]'' (1983),<ref name="HotPress"/> cũng như album nhạc sống ''[[King Biscuit Flower Hour Presents Greg Lake in Concert]]'', được phát hành vào năm 1995.<ref>{{chú thích web |url=https://www.allmusic.com/album/king-biscuit-flower-hour-greg-lake-in-concert-mw0000645066 |title= Greg Lake – King Biscuit Flower Hour: Greg Lake In Concert |author=Lindsay Planer |publisher=AllMusic |access-date=24 tháng 8 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Năm 1982, Moore được cân nhắc cho vị trí tay guitar của Whitesnake, song giọng ca chính [[David Coverdale]] lại lựa chọn không kết nạp Moore bởi ban nhạc đang làm thủ tục cắt đứt quan hệ với quản lý của nhóm.<ref>{{chú thích web |url=https://www.eonmusic.co.uk/david-coverdale-whitesnake-eonmusic-interview-october-2020-part-2.html |title= David Coverdale Whitesnake Eonmusic Interview October 2020 Part 2 |author=Eamon O'Neill |publisher=Eonmusic |access-date=25 tháng 11 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Năm 1987, Moore hợp tác làm đĩa đơn từ thiện "[[Let It Be (bài hát)|Let It Be]]" của Anh cùng một số nghệ sĩ, được phát hành dưới cái tên [[Ferry Aid]].<ref name="BelfastTelegraph2"/>
 
Từ năm 1993 đến 1994, Moore là thành viên của nhóm nhạc 3 người [[BBM (ban nhạc)|BBM]] ("Baker Bruce Moore") hoạt động ngắn ngủi với sự tham gia của [[Jack Bruce]] và [[Ginger Baker]] (đều là những cựu thành viên của [[Cream]]). Sau chỉ một album và một chuyến lưu diễn châu Âu, nhóm đã giải tán. Dự án bị đổ bể bởi những xung đột tíchtính cách giữa các thành viên cũng như "vấn đề tai" mà Moore mắc phải trong tour diễn.<ref>{{chú thích web |url=https://www.loudersound.com/features/gary-moore-cream-was-a-very-magical-band |title= Ego, tempers, affairs: The tumultuous story of BBM |publisher=Louder| author=Harry Shapiro |date=9 tháng 7 năm 2018 |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Sau này Moore kể về vụ ban nhạc tan rã: "Có nhiều thứ làm cho ban nhạc khó có khả năng gắn bó lâu dài. Tôi nghĩ về mặt quản lý, Jack [Bruce] đã quen có ban nhạc của riêng anh, tôi thì quên có ban nhạc riêng của mình và vì thế thật khó khăn."<ref name="MusicRadar"/> Năm 2002, Moore hợp tác với [[Cass Lewis]] (cựu tay bass của [[Skunk Anansie]]) và tay trống [[Darrin Mooney]] của [[Primal Scream]] trong album [[Scars (album của Gary Moore)|''Scars'']] (phát hành năm 2005).<ref>{{chú thích web |url=https://www.manchestereveningnews.co.uk/whats-on/music/gary-just-loves-his-scars-1178473 |title= Gary just loves his scars |publisher=Manchester Evening News | author=Simon Donohue |date=1 tháng 2 năm 2007|access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Moore còn thể hiện trong đĩa đơn từ thiện "[[Grief Never Grows Old]]" của [[One World Project]], được phát hành vào năm 2005.<ref>{{chú thích web |url=http://bravewords.com/news/gary-moore-performs-on-one-world-project-tsunami-charity-single |title= GARY MOORE Performs On ONE WORLD PROJECT Tsunami Charity Single |date=1 tháng 2 năm 2005|publisher=BraveWords |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref>
 
Xuyên suốt sự nghiệp, Moore đã đứng chung sân khấu cùng nhiều nghệ sĩ khác như George Harrison,<ref>{{chú thích web |url=https://www.guitarworld.com/artists/george-harrison-and-gary-moore-perform-beatles-while-my-guitar-gently-weeps-1992 |title= George Harrison and Gary Moore Play "While My Guitar Gently Weeps" in 1992 |publisher=Guitar World | author=Damian Fanelli |date=1 September 2017|access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> [[Dr. Strangely Strange]],<ref>{{chú thích web |url=https://www.irishtimes.com/culture/moore-power-1.284017 |title=Moore power |publisher=The Irish Times |date=23 tháng 2 năm 2001 |access-date=18 tháng 9 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> [[Andrew Lloyd Webber]], [[Rod Argent]], [[Gary Boyle]],<ref name="AllMusic"/> [[B.B. King]],<ref>{{chú thích web |url=https://www.guitarworld.com/artists/forgotten-guitar-bb-king-and-gary-moore-play-thrill-gone-1992 |title= Forgotten Guitar: B.B. King and Gary Moore Play "The Thrill Is Gone" in 1992 |author=Jonathan Graham |publisher=Guitar World |date=6 tháng 2 năm 2018 |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> [[The Traveling Wilburys]] và [[The Beach Boys]].<ref>{{chú thích web |url=https://www.bbcamerica.com/anglophenia/2011/02/gary-moore-legendary-axeman-for-thin-lizzy-has-died |title= Gary Moore, Legendary Axeman for Thin Lizzy, Has Died |author=Mackenzie Williams |publisher=BBC America |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref>
 
== Đời tư ==
Giữa thập niên 1970, Moore dính vào một vụ ẩu đả ở quán bar, để lại một vết sẹo trên mặt ông. Theo [[Eric Bell]] kể lại, Moore đang đi cùng bạn gái ở [[Dingwalls]] thì gặp hai người đàn ông "bắt đầu xì xào về bạn gái của Gary [...] về những gì họ muốn làm với cô". Sau khi Moore đối mặt với hai người họ để bàn chuyện đó, một trong hai người đàn ông đã đập chiếc chai trong bar và cào vào mặt ông. Vụ việc đã tác động sâu sắc đến ông. Bell kể: "Nó đã thay đổi anh ấy. Rất nhiều sự giận dữ và cảm xúc bị dồn nén sẽ bộc phát trong lối chơi nhạc của anh. Nó còn bộc phát theo những cách khác nữa. Anh ấy phải rất khó khăn mới trở lại từ sau vụ việc ấy." Trong thập niên 1980, ông giấu vết sẹo của mình trong những bức ảnh và video bằng cách nhìn xuống hoặc đứng cách xa khung hình.<ref name="Louder"/><ref>{{chú thích web |url=https://www.belfasttelegraph.co.uk/entertainment/music/news/gary-moore-belfast-boy-and-baby-faced-dreamer-28586867.html |title=Gary Moore – Belfast Boy and baby-faced dreamer |publisher=Belfast Telegraph |date=ngày 8 tháng 2 năm 2011|access-date=24 tháng 8 năm 2020| df = dmy-all }}</ref>
 
Moore kết hôn với người vợ đầu Kerry từ năm 1985 đến 1993.<ref name="Louder2"/><ref name="BelfastTelegraph3"/><ref name="BelfastTelegraph4">{{chú thích web |url=https://www.belfasttelegraph.co.uk/entertainment/music/news/gary-moore-when-im-playing-i-get-totally-lost-in-it-28586868.html |title= Gary Moore: When I'm playing I get totally lost in it |publisher=Belfast Telegraph |date=8 tháng 1 năm 2011 |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Họ có với nhau hai cậu con trai là Jack (người cũng theo nghiệp nhạc sĩ<ref>{{chú thích web |url=https://slabber.net/2020/09/18/jack-moore-i-would-love-to-visit-belfast-and-visit-a-statue-celebrating-my-father-and-his-music/ |title= Jack Moore: I would love to visit Belfast and see a statue celebrating my father and his music |website=Slabber.net |author=Alex McGreevy |date=18 tháng 9 năm 2020 |access-date=1 tháng 7 năm 2021| df = dmy-all }}</ref>) và Gus, trước khi ly hôn.<ref name="BelfastTelegraph3">{{chú thích web |url=https://www.belfasttelegraph.co.uk/imported/master-gary-waiting-for-return-call-to-belfast-28272470.html |title= Master Gary waiting for return call to Belfast |publisher=Belfast Telegraph |date=5 tháng 7 năm 2005|access-date=24 tháng 8 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Sau đó Moore có một con gái tên Lily (người cũng chọn âm nhạc để bắt đầu sự nghiệp<ref>{{chú thích web |url=https://www.theguardian.com/music/2019/dec/01/one-to-watch-lily-moore-gary-moore-brighton |title= One to watch: Lily Moore |publisher=The Guardian |author=Shannon Mahanty |date=1 tháng 12 năm 2019 |access-date=1 tháng 7 năm 2021| df = dmy-all }}</ref>), trong lúc có quan hệ tình ái với Jo Rendle.<ref name="BelfastTelegraph3"/><ref>{{chú thích web |url=https://www.belfasttelegraph.co.uk/news/northern-ireland/rock-legend-gary-moore-left-estate-of-more-than-2m-28603141.html |title= Rock legend Gary Moore left estate of more than £2m |publisher=Belfast Telegraph |date=4 tháng 4 năm 2011|access-date=24 tháng 8 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Moore còn có một cô con gái tên Saoirse từ một mối tình khác nữa.<ref>{{chú thích web |url=https://www.independent.ie/irish-news/legendary-guitarist-gary-moore-laid-to-rest-in-moving-ceremony-26707646.html |title= Legendary guitarist Gary Moore laid to rest in moving ceremony |publisher=Independent.ie |author=Ken Sweeney |date=24 tháng 2 năm 2011|access-date=24 tháng 8 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Ở thời điểm ông qua đời, Moore cũng đang yêu một người.<ref name="DailyTelegraph">{{Chú thích web|url= https://www.telegraph.co.uk/news/celebritynews/9108895/Former-Thin-Lizzy-guitarist-Gary-Moore-was-five-times-drink-drive-limit-when-he-died.html|title=Former Thin Lizzy guitarist Gary Moore was five times drink drive limit when he died|publisher=The Daily Telegraph|date=2 tháng 2 năm 2012| access-date= 7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all}}</ref>
Dòng 70:
== Qua đời ==
[[File:Gary Moore's gravestone.jpg|thumb|upright|Bia mộ của Moore.]]
Trong những canh giờ đầu tiên của ngày 6 tháng 2 năm 2011, Moore qua đời vì bị đau tim khi đang ngủ, hưởng dương 58 tuổi. Lúc đó, ông đang đi nghỉ lễ cùng bạn gái của mình tại Khách sạn Kempinski ở [[Estepona]]. Cái chết của ông được người quản lý của [[Thin Lizzy]] là Adam Parsons xác nhận.<ref name="DailyTelegraph"/><ref name="IrishTimesDeath">{{chú thích web |title=Former Thin Lizzy guitarist Moore dies |url=http://www.irishtimes.com/newspaper/breaking/2011/0206/breaking25.html |publisher=The Irish Times |access-date=6 tháng 2 năm 2011 |date=6 tháng 2 năm 2011 |df = dmy-all}}</ref><ref name="bbc news online">{{chú thích web |url= https://www.bbc.co.uk/news/uk-northern-ireland-12377862 |title= Gary Moore, Thin Lizzy guitarist, dies aged 58 |work=[[BBC News]] |date=6 tháng 2 năm 2011 |access-date=13 tháng 8 năm 2019}}</ref> ''[[The Daily Telegraph]]'' đưa tin rằng nguyên nhân gây nên cơn trụy tim của Moore là do nồng độ cồn cao trong cơ thể ông: 380&nbsp;mg cồn trong 100&nbsp;ml máu.<ref name="DailyTelegraph"/> Theo nhà báo âm nhạc [[Mick Wall]], Moore đã mắc [[chứng nghiện rượu]] nặng trong những năm cuối đời.<ref name="ClassicRock"/>
 
Moore được chôn cất tại nghĩa trang tư nhân ở [[St Margaret's Church, Rottingdean|Nhà thờ St Margaret]], [[Rottingdean]], trên bờ biển miền nam nước Anh, chỉ có gia đình và bạn bè thân thiết tới tham dự đám tang. Cậu con trai út Jack và người chú Cliff đã thể hiện bản ballad "[[Danny Boy]]" của Ireland tại đám tang của ông. Tờ ''[[The Belfast Telegraph]]'' miêu tả màn biểu diễn ấy là "một sự tri ân hoàn hảo, khi mà một số người đưa tang trong nhà thờ đã bật khóc".<ref>{{Chú thích web| url=https://www.belfasttelegraph.co.uk/news/northern-ireland/thin-lizzy-guitar-hero-gary-moore-laid-to-rest-as-son-plays-danny-boy-28591990.html |title=Thin Lizzy guitar hero Gary Moore laid to rest as son plays Danny Boy |publisher= Belfast Telegraph |date= 2 tháng 2 năm 2011 |access-date=7 tháng 7 năm 2020 |df = dmy-all}}</ref>
 
==Phong cách và ảnh hưởng==
Moore nổi danh nhờ sở hữu một sự nghiệp đa dạng, biểu diễn các thể loại hard rock, heavy metal và jazz fusion.<ref name="TopTen"/><ref name="bbc news online"/> Đôi khi ông bị cáo buộc theo đuổi những xu hướng, nhưng Moore lên tiếng phủ nhận, cho biết lúc ấy ông chỉ luôn làm những gì mà mình thích.<ref name="GimmeMoore"/> Sau ''Still Got the Blues'', Moore tự tách mình khỏi hình ảnh hard rock ở thập niên 1980. Dù nhìn chung là vẫn thích nhạc rock, ông không còn tự nhận mình là một nghệ sĩ guitar rock nữa: "Thành thực mà nói, tôi không phải người như thế nữa. Nếu tôi nghe mấy thứ nhạc ấy, tôi sẽ phản ứng, 'Chết tiệt. Mình thực sự đã chơi nhạc thế ư?' Thứ nhạc [rock] ấy chỉ nghe kháquá xa lạ với tôi theo cách nào đấy. – Nó chỉ không phải cách mà tôi muốn chơi."<ref name="Holland">{{chú thích web|url=https://briandholland.com/GaryMooreInterview.htm |publisher=The Sonic Blaze – The Site of Music Journalist Brian D. Holland |title= Gary Moore Interview |author=Brian D. Holland |date=1 tháng 7 năm 2007|access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Nhiều ca khúc của Moore mang tính tự truyện hoặc nói về những chủ đề quan trọng với ông.<ref name="VintageGuitar">{{chú thích web |url=https://www.vintageguitar.com/3481/gary-moore-3/ |title= Gary Moore: Still Got the Blues – Again! |publisher=Vintage Guitar Magazine |author=Lisa Sharken |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref>
 
[[File:Gary Moore 2005.05.21 002-2.jpg|thumb|left|Moore nổi tiếng nhờ những biểu cảm đau đớn trong những buổi trình diễn nhạc sống.]]
Một trong những nguồn cảm hứng lớn nhất của Moore là nghệ sĩ guitar [[Peter Green (nhạ công)|Peter Green]]. Lần đầu Moore nghe Green chơi nhạc là ở một buổi diễn với nhóm [[John Mayall & the Bluesbreakers]], ông kể: "Quả là một trải nghiệm đáng kinh ngạc khi nghe một nghệ sĩ guitar dạo bước trên sân khấu và cắm dây điện vào âm ly (thứ mà tôi từng cho là một đống rác rưởi) và tạo ra thứ âm thanh tuyệt hảo này. Anh ấy thật quá đỗi phi thường, mọi thứ về anh cực kỳ duyên."<ref name="MusicRadar"/> Cuối cùng Moore gặp gỡ Green vào tháng 1 năm 1970 khi Skid Row đi lưu diễn cùng ban nhạc [[Fleetwood Mac]] của Green.<ref name="Louder2"/> Hai người kết bạn và sau đấy Green bán lại cây guitar 1959 [[Gibson Les Paul]] của mình cho Moore.<ref name=guitarworld>{{chú thích web |url=https://www.guitarworld.com/features/how-gary-moore-came-to-own-peter-greens-iconic-les-paul-greeny |title= How Gary Moore came to own Peter Green's iconic Les Paul, Greeny |author=David Mead |publisher=Guitarist |date=2 tháng 6 năm 2020|access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref><ref>{{chú thích web |url=http://aws2.gibson.com/News-Lifestyle/Features/en-us/gary-moore-0203-2012.aspx |title= Still Got the Blues: Gary Moore Remembered |author=Michael Leonard |publisher=Gibson |date=2 tháng 3 năm 2012 |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Một nguồn cảm hứng lớn nữa của Moore là [[Eric Clapton]], ông lần đầu nghe nhạc của Clapton trong album ''[[Blues Breakers with Eric Clapton]]'' của [[John Mayall & The Bluesbreakers]]. Sau này Moore miêu tả đấy là trải nghiệm làm thay đổi đời mình: "Chỉ trong 2 giây nghe bài mở đầu, tôi đã bị choáng ngợp. Tự tiếng guitar nó đã quá đỗi khác biệt. Bạn có thể nghe thấy chất blues trong bản nhạc, nhưng trước ấy tất cả tiếng guitar mà bạn nghe trong nhạc rock, pop đều rất điềm đạm và tao nhã. Cứ nghe [[The Beatles|Beatles]] và [[The Shadows]] giai đoạn đầu là hiểu ý tôi nói. Họ tuyệt đấy, song Eric Clapton siêu việt hơn hẳn."<ref>{{chú thích web|url=https://www.loudersound.com/features/gary-moore-i-jumped-on-the-blues-bandwagon-i-was-the-bandwagon |publisher=Louder |title=Gary Moore: "I jumped on the Blues bandwagon? I was the bandwagon!" |author=Sian Llewellyn |date=2 tháng 3 năm 2007|access-date=1 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Một số nguồn ảnh hưởng đầu tiên khác lên Moore gồm có [[Jeff Beck]], [[George Harrison]], [[Jimi Hendrix]], [[Hank Marvin]], [[John Mayall]], và [[Mick Taylor]].<ref name="GuitarWorld"/><ref name="Holland"/><ref name="VintageGuitar"/> Ông còn nhắc đến [[Albert King]] và [[B.B. King]] là những người ảnh hưởng đến mình.<ref name="VintageGuitar"/>
 
Nhiều ấn phẩm đã miêu tả Moore là một [[virtuoso]] (cao nhân).<ref name="BBC"/><ref name="Independent"/><ref name="SoundOnSound"/><ref name="BelfastTelegraph2"/> [[Don Airey]] miêu tả nam nghệ sĩ là một thiên tài, còn tay guitar [[Bernie Marsden]] nhận xét rằng "Gary có thể chơi bất kì phong cách nào theo đúng nghĩa đen".<ref name="ClassicRock"/> Moore nổi danh nhờ độ nhạy bén về giai điệu, cũng như kỹ thuật [[vibrato|tiếngrung réo đàndây]] kích động của mình. Trong thập niên 1980, ông thường sử dụng những [[Âm giai Trưởng tự nhiên|âm giai trưởng]] hoặc [[âm giai thứ]] tự nhiên. Ở nửa sau sự nghiệp, lối chơi đàn của Moore trở nên đặc trưng bởi sử dụng các âm giai [[Ngũ cung (âm giai)|ngũ cung]] và [[âm giai blues|blues]].<ref>{{chú thích web|url=https://www.musicradar.com/guitartechniques/how-to-play-gary-moore-style-rock-guitar-368110 |publisher=MusicRadar |title=How to play Gary Moore-style rock guitar |author=Martin Cooper |date=7 tháng 2 năm 2011 |access-date= 26 tháng 8 năm 2020 | df = dmy-all }}</ref> Trong những đoạn nhạc ngắn giàu giai điệu, Moore thường sử dụng [[Pickup (công nghệ nhạc)|pickup]] kẹpcần cổđàn guitar, trong khi pickup gắn ở ngựa đàn dùng để tạo nên một thứ âm thanh kích động hơn.<ref>{{chú thích web|url=https://www.guitarworld.com/lessons/lessons-rock-gary-moore-signature-style |publisher=Guitar World |title=Master the signature elements of Gary Moore's instantly identifiable guitar style |author=Andy Aledort |date=6 tháng 2 năm 2020 |access-date= 26 tháng 8 năm 2020 | df = dmy-all }}</ref> Nói về lối chơi nhạc của mình, Moore cho biết lời khuyên tốt nhất mà ông từng nhận được đến từ Albert King, người đã chỉ dạy ông giá trị của việc bỏ khoảng cách giữa các nốt nhạc. Moore chia sẻ: "Khi bạn tập thói quan bỏ khoảng cách [nốt], bạn sẽ trở thành người chơi đàn tốt hơn nhiều. Nếu bạn có một phong cách ý nghĩa và thể hiện cảm xúc của mình thông qua cây guitar, và bạn có một tiếng đàn tuyệt hay, thế sẽ làm khán giả căng thẳng rất nhiều. Tất cả là do cảm nhận mà thôi. Nếu bạn có cảm nhận với blues, đó là một phần quan trọng. Nhưng bản phải bỏ khoảng cách."<ref name="Independent"/> Moore còn nổi bật nhờ thể hiện những biểu cảm đau đớn trong lúc trình diễn, ông cho biết đấy không phải là hành động có nhận thức. Khi được hỏi, ông đáp: "Khi tôi chơi nhạc, tôi hoàn toàn bị chìm đắm và thậm chỉ chẳng nhận thức mặt mình ra sao — tôi chỉ chơi thôi."<ref name="BelfastTelegraph4"/>
 
Moore thường bị miêu tả là "cục cằn" và nổi tiếng là khó làm việc cùng.<ref name="Independent"/><ref name="HotPress"/><ref name="Louder"/> [[Brian Downey (tay trống)|Brian Downey]] miêu tả Moore đôi khi thật "gàn dở", còn [[Eric Bell]] kể lại một sự cố cụ thể sau một buổi hòa nhạc ở Dublin: "Tôi đi gặp anh ấy trong phòng thay đồ sau khi tan cuộc. — Tôi ngồi xuống kế bên anh và nói, 'Buổi diễn quá sức tuyệt vời đấy, Gary.' Anh ấy nhìn vào tôi. 'Cái gì? Đồ chết tiệt! Tôi chưa bao giờ chơi tệ đến thế trong cái cuộc đời khốn nạn của mình!' Tôi nhìn thấy cái bản tính đó của anh ta khá nhiều rồi."<ref name="Louder"/> Downey tiếp tục nhắc lại vụ việc khi nói rằng nếu một show không hoàn hảo thì Moore sẽ bị giằn vặt.<ref name="ClassicRock"/> Đôi lúc Moore thừa nhận mình nổi tiếng là khó làm việc cùng, và ông cho rằng nguyên nhân là do bản tính cầu toàn của mình, ép người khác tuân theo những tiêu chuẩn mà ông tự đặt ra.<ref name="HotPress"/> Sau này Don Airey kể rằng tính cầu toàn của Moore thường làm chính ông tổn thương.<ref name="ClassicRock"/>
Dòng 100:
=== Guitar ===
[[File:GaryMooreLP-lg.jpg|thumb|upright|120px|Cây đàn Gibson Gary Moore Signature Les Paul]]
Cây đàn guitar gắn bó nhất với Moore là cây đàn 1959 [[Gibson Les Paul]] do người bạn [[Peter Green (nhạc công)|Peter Green]] bán cho với giá khoảng 100 [[bảng Anh]].<ref>{{chú thích tạp chí|url=https://www.guitarworld.com/features/how-gary-moore-came-to-own-peter-greens-iconic-les-paul-greeny|title=How Gary Moore came to own Peter Green's iconic Les Paul, Greeny|first=David|last=Mead|magazine=Guitar World|date=29 tháng 6 năm 2020|access-date=31 tháng 8 năm 2020}}</ref> Cây guitar có biệt danh "Greeny" nổi bật với âm sắc khác thường bởi chiếc pickup kẹpcần ngượcđàn vàoxoay cổ đànngược. Moore sử dụng cây đàn trong phần lớn sự nghiệp (nổi bật nhất là "Parisienne Walkways"), đến năm 2006 thì ông bán cây đàn với giá dao động từ 750.000 và 1,2&nbsp;triệu đô la Mỹ. Cây đàn được [[Kirk Hammett]] (nghệ sĩ guitar của [[Metallica]]) mua lại vào năm 2014 với giá được cho là "chuachưa tới 2 triệu đô la Mỹ".<ref>{{chú thích web |url=https://www.guitarworld.com/gear/kirk-hammett-jimmy-page-told-me-buy-peter-greens-les-paul |title= Kirk Hammett: "Jimmy Page Told Me to Buy Peter Green's Les Paul" |publisher=Guitar World | author=Christopher Scapelliti |date=2 tháng 4 năm 2017|access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Trong ''Still Got the Blues'', Moore sử dụng một cây đàn 1959 Gibson Les Paul nữa mà ông mua được vào năm 1989.<ref name="VintageGuitar"/><ref name="YouTube">{{chú thích web |url=https://www.youtube.com/watch?v=GCQ1WxrMZuo&t=291s |title= Gary Moore's Guitars – plugging into history |publisher=Guitarist |website=YouTube|date=1 tháng 8 năm 2016|access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Cây đàn đặc biệt được giữ lại trong khối tài sản thừa kềkế của Moore sau khi ông mất.<ref name="YouTube"/> Vào giai đoạn 2000–2001, Gibson trình làng một mẫu đàn Gary Moore Signature Les Paul Standard với lóplớp vởvỏ ngoài màu chanh nhạt và chiếc pickup kẹpcần ngượcđàn vàoxoay cổ đànngược. Sau đó Gibson cho ra mắt mẫu đàn Gary Moore Signature BFG Les Paul, có trang bị một pickup [[P-90]] ở vị trí cỏgần cần đàn.<ref>{{chú thích web |url=http://legacy.gibson.com/News-Lifestyle/Features/en-us/Legends-of-the-Les-Paul-Gary-Moore.aspx |title= Legends of the Les Paul: Gary Moore |publisher=Gibson |author=Dave Hunter | date=2 tháng 8 năm 2018|access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Năm 2013, Gibson thông báo cho ra đời một sản phẩm Gary Moore Signature Les Paul mới nữa, phỏng theo cây "Greeny".<ref>{{chú thích web |url=https://www.musicradar.com/news/guitars/gibson-announces-gary-moore-les-paul-standard-574313 |title= Gibson announces Gary Moore Les Paul Standard |publisher=MusicRadar |author=Rob Power | date=2 tháng 4 năm 2013|access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref>
 
Trong ''Corridors of Power'' và ''Victims of the Future'', Moore sử dụng một cây đàn 1961 Fiesta Red [[Fender Stratocaster]] (trước đây từng thuộc quyền sở hữu của [[Tommy Steele]]). Năm 2017, cửacông hàngty đặtFender muaCustom FenderShop phát hành một bản sao cây đàn với số lượng hạn chế.<ref name="GuitarWorld"/><ref>{{chú thích web |url=https://www.musicradar.com/news/under-the-microscope-gary-moores-fiesta-red-fender-stratocaster |title= Under the microscope: Gary Moore's Fiesta Red Fender Stratocaster |date=8 tháng 6 năm 2017 |author=Jamie Dickson | publisher=MusicRadar |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref><ref>{{chú thích web |url=https://www.musicradar.com/news/guitars/fender-custom-shop-unveils-gary-moore-stratocaster-electric-guitar-638287 |title= Fender Custom Shop unveils Gary Moore Stratocaster electric guitar |date=2 tháng 5 năm 2017|author=Michael Astley-Brown | publisher=MusicRadar |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> Trong thập niên 1980, Moore còn chơi các cây guitar [[Hamer Guitars|Hamer]] và [[PRS Guitars|PRS]], cũng như thiết bị [[tremolo]] [[Floyd Rose]] có trang bị [[Charvel]] và những pickup của [[EMG, Inc.|EMG]].<ref name="GuitarWorld"/> Những cây guitar khác nữa mà Moore dùng trong suốt sự nghiệp gồm có mẫu 1964 [[Gibson ES-335]] và một mẫu 1968 [[Fender Telecaster]], cùng nhiều mẫu đàn khác nữa.<ref name="GuitarWorld"/><ref name="VintageGuitar"/> Sau khi mất, số lượng cây guitar của Moore đã bị đem bán đấu giá. Trong số này có mẫu đàn 1963 Fender Stratocaster do [[Claude Nobs]] trao cho, một cây Fritz Brothers [[Roy Buchanan]] Bluesmaster, một cây 2011 Gibson Les Paul Standard VOS Collector's Choice No. 1 Artist's Proof No. 3 (phỏng theo cây đàn "Greeny") và một cây 1964 [[Gibson Firebird]] 1.<ref>{{chú thích web |url=https://www.guitarworld.com/gear/gary-moores-guitars-fetch-190000-auction |title= Gary Moore's Guitars Fetch $190,000 at Auction |date=5 tháng 7 năm 2016 |author=Christopher Scapelliti | publisher=Guitar World |access-date=7 tháng 7 năm 2020| df = dmy-all }}</ref> MooreKhi mới bắt đầu chơi cácguitar, Moore sử dụng loại dây có kích cỡ .009-.046, rồi chuyển sang mức .010-.052. và sau đấy là mức .009-.048.<ref name="VintageGuitar"/>
 
=== Nhạc cụ khác ===