Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tiếng Phạn”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã hồi sửa các sửa đổi thiện chí của ItzJustKay (talk)
Thẻ: Twinkle Lùi sửa Đã bị lùi lại
Đã lùi lại sửa đổi 70557119 của P. ĐĂNG (thảo luận)
Thẻ: Lùi sửa Đã bị lùi lại
Dòng 36:
'''[[Saṃskṛta]]''' là một [[quá khứ phân từ thụ động]] được hình thành từ tiếp đầu âm '''sam''', có nghĩa là "gom lại", "đầy đủ" và gốc động từ √'''kṛ''' với nghĩa là "làm". Như vậy thì ''saṃskṛta'' có nghĩa là "được làm đầy đủ". Theo quan niệm Ấn Độ, cái được làm đầy đủ, trọn vẹn là tốt nên ''saṃskṛta'' cũng được hiểu là "toàn hảo". Các nhà dịch [[kinh Phật]] từ Phạn sang [[Hán]] dịch ''saṃskṛta'' là Phạn (Phạm 梵), có nghĩa là thuộc về [[Brahma]], thuộc cõi trời thanh tịnh, thiêng liêng và theo nghĩa này danh từ '''Phạn ngữ''' (zh. 梵語) được dùng. Một cách gọi khác là '''Nhã ngữ''' (zh. 雅語).
 
Theo định nghĩa trên thì tiếng Phạn luôn là một ngôn ngữ cao cấp được dùng trong những lĩnh vực [[tôn giáo]] và [[khoa học]], đối nghịch với những loại ngôn ngữ bình dân. Bộ văn phạm cổ nhất còn được lưu lại là ''Sách ngữ pháp tám chương'' (sa. ''aṣṭādhyāyī'') của [[Ba-ni-ni]] (sa. ''Pāṇini''), được biên tập vào khoảng thế kỉ thứ 5 trước CN. Bộ này cơ bản là một bộ ngữ pháp quy định, phán định (''prescriptive'') thế nào là tiếng Phạn đúng, thay vì mang tính chất miêu tả (''descriptive''). Tuy nhiên, nó vẫn hàm dung những phần miêu tả, phần lớn miêu tả những dạng từ ngữ Phệ-đà đã không còn phổ biến vào thời của [[Ba-ni-ni]] (sa. ''Pāṇini'').
 
Mặc dù hầu hết những người học tiếng Phạn cũng đã nghe câu truyện truyền thống là tiếng Phạn đã được sáng tạo và tinh chế qua nhiều thế hệ (theo truyền thống là hơn một thiên niên kỉ) cho đến lúc được xem là toàn hảo. Khi danh từ ''saṃskṛta'' xuất hiện tại Ấn Độ, nó không được hiểu là một ngôn ngữ đặc thù, khác biệt so với những ngôn ngữ khác (người Ấn Độ thời đó thường xem ngôn ngữ là [[phương ngữ|phương ngôn]], tức là những thứ tiếng địa phương), mà chỉ là một cách ăn nói tao nhã đặc biệt, có một mối tương quan với các ngôn ngữ địa phương như trường hợp [[tiếng Anh]] "chuẩn" có mối tương quan với những loại phương ngôn được dùng tại [[Vương quốc Anh]] hoặc [[Hoa Kỳ]]. Kiến thức tiếng Phạn là một dấu hiệu của địa vị xã hội và học vị, được truyền dạy qua sự phân tích chặt chẽ những nhà văn phạm Phạn ngữ như [[Ba-ni-ni]]. Hình thái của ngôn ngữ này xuất phát từ dạng Phệ-đà có trước và các học giả thường phân biệt giữa tiếng Phạn Phệ-đà (''vedic sanskrit'') và tiếng Phạn cổ (''classical sanskrit''). Tuy nhiên, hai ngôn ngữ này rất giống nhau về nhiều mặt, chỉ khác nhau phần lớn ở một vài khía cạnh âm vận, từ vị và ngữ pháp. Cũng một số người cho rằng, Ấn Độ thời xưa có nhiều phương ngôn khác nhau và tiếng Phạn cổ là một trong những phương ngôn, [[Kinh Vệ Đà|Phệ-đà]] là một cấp bậc cổ hơn của một trong những phương ngôn này. Tiếng Phệ-đà có khuynh hướng chuyển các từ Ấn-Âu '''l''' ल् thành '''r''' र्, chuyển '''ḍ''' ड् và '''ḍh''' ढ् thành '''ḷ''' ऌ và '''ḷh''' ळ giữa các nguyên âm (với '''l''' uốn lưỡi).