Khác biệt giữa bản sửa đổi của “An Dương Vương”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi Thẻ: Đã bị lùi lại Liên kết định hướng |
n Đã hồi sửa 1 sửa đổi của Vuhoangsonhn (talk) đến bản sửa đổi cuối cùng của Trungthachdau |
||
Dòng 1:
{{bài cùng tên}}
{{Trích dẫn quá dài|date=Tháng 3/2023}}
{{Văn phong|date=Tháng 3/2023}}
{{Nguồn sơ cấp|date=Tháng 3/2023}}
{{Chú thích trong bài|date=Tháng 3/2023}}
{{Thông tin nhân vật hoàng gia
| tên = An Dương vương
| tên gốc = 安陽王
| tước vị = [[Vua Việt Nam|Vua Âu Lạc]]
| tước vị thêm =
| thêm = vietnam
| hình = [[Tập tin:Bảo tàng Mỹ thuật Tp (Vườn tượng, tượng An Dương Vương) (9).jpg|
| ghi chú hình = Tượng điêu khắc An Dương Vương
| chức vị =
| tại vị = [[257]] - [[208 TCN]]/[[208]] - [[179 TCN]]
| đăng quang =
| tiền nhiệm = ''Sáng lập triều đại''
| nhiếp chính =
| kế nhiệm = ''Triều đại sụp đổ''
| hôn phối =
| phối ngẫu =
| vợ = Thục Nương
| thông tin con cái = hiện
| con cái = [[Mỵ Châu]]
| tên đầy đủ = Thục Phán Thân
| tên tự =
| tên hiệu =
| tôn hiệu =
| miếu hiệu =
| thụy hiệu =
| niên hiệu =
| thời gian của niên hiệu =
| tước hiệu = An Dương vương (?)
| hoàng tộc =
| cha = [[Thục Chế]]
| mẹ = ?
| sinh =
| nơi sinh =
| mất = [[179 TCN]]<ref name="ReferenceA"/>
| nơi mất =
| ngày an táng =
| nơi an táng =
| học vấn =
| nghề nghiệp =
| tôn giáo =
| chữ ký =
}}
{{Lịch sử Việt Nam}}
{{Kháng chiến của Việt Nam}}
{{Nội chiến của Việt Nam}}
'''An Dương Vương''' ({{hn|ch=安陽王}}), tên thật là '''Thục Phán Thân''' (蜀审判体),<ref>[http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10965&rb=08 Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20110520171302/http://talawas.org/talaDB/showFile.php?res=10965&rb=08 |date = ngày 20 tháng 5 năm 2011}}, Bách Bộc xuất bản. Giấy phép xuất bản số 3650/BTT/PHNT ngày 2/8/1971. Bản điện tử do talawas thực hiện.</ref> là người lập nên nước [[Âu Lạc]], nhà nước thứ hai trong [[lịch sử Việt Nam]] sau nhà nước [[Văn Lang]]. Niên đại trị vì của An Dương Vương được các tài liệu ghi khác nhau. Sử cũ
==Sử liệu==
▲Niên đại trị vì của An Dương Vương được các tài liệu ghi khác nhau. Sử cũ như ''[[Đại Việt sử ký toàn thư]], [[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]]'' cho rằng thời gian ông làm vua [[Âu Lạc]] kéo dài 50 năm, từ 257 TCN đến 208 TCN.<ref name="informatik">[http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt01.html Đại Việt sử ký toàn thư, quyển I].</ref> Các sử gia hiện đại căn cứ vào ''[[Sử ký Tư Mã Thiên]]'' là tài liệu gần thời đại nước [[Âu Lạc]] nhất, cho rằng An Dương vương và nước [[Âu Lạc]] tồn tại từ khoảng 208 TCN đến 179 TCN, tức là gần 30 năm.<ref>{{Harvnb|Phan Huy Lê|Trần Quốc Vượng|Hà Văn Tấn|Lương Ninh|1991|p=129–130}}</ref>
Vào thời kỳ [[Hồng Bàng]] cách đây khoảng 2.300 năm, ở vùng [[Bắc Bộ]]
[[Sử ký|Sử kí Tác ẩn]]<ref>quyển 113, Nam Việt liệt truyện</ref> viết thời [[Nhà Đường]] – [[Tư Mã Trinh]] (679-732) soạn, dẫn [[Quảng châu kí]] chép:
:''“[[Giao Chỉ|Quận Giao Chỉ]] có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc
▲Vào thời kỳ [[Hồng Bàng]] cách đây 2.300 năm, ở vùng [[Bắc Bộ]] Việt Nam có các bộ tộc người [[Âu Việt]] sống xen kẽ với người [[Lạc Việt]]. Nhà nước Văn Lang do Hùng vương đứng đầu cai trị người Lạc Việt. Thục Phán là vua người Âu Việt, sau một cuộc xung đột (sử sách không ghi rõ chi tiết), ông đã đánh bại Hùng vương, thống nhất hai tộc Âu Việt và Lạc Việt vào chung một triều đình. Ông đổi quốc hiệu thành [[Âu Lạc]], xưng là An Dương Vương, đóng đô tại [[Phong Khê]] (nay là vùng [[Thành Cổ Loa|Cổ Loa]], huyện [[Đông Anh]], [[Hà Nội]]). Có ca dao:
[[Cựu Đường thư]] (viết thời [[Hậu Tấn]] – [[Lưu Hú]] soạn, năm [[945 SCN]])<ref>quyển 41, Chí 21, Địa lí 4</ref> dẫn [[Nam triều công nghiệp diễn chí]] (viết thời [[Lưu Tống]], 420 – 479) chép:
:''“[[Giao Chỉ|Đất quận Giao Chỉ]] rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu... vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng Vương đi. Vua Thục nhân đó cho con mình làm An Dương Vương, trị đất Giao Chỉ"''.
Đến thế kỷ 20, thẻ ngọc "An Dương hành bảo" được tìm thấy ở thành phố Quảng Châu thuộc lãnh thổ nước Nam Việt thời cổ. Đây là chiến lợi phẩm khi Nam Việt chiếm được [[Âu Lạc]] nên mới đào được ở Quảng Châu. Phát hiện khảo cổ này đã chứng minh ghi chép trong cổ sử là chính xác, chứng thực được rằng An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc là có thật.
Có ca dao:
{{cquote|
''Ai về qua huyện Đông Anh''<br>''Ghé xem phong cảnh Loa Thành Thục vương''<br>''Cổ Loa thành ốc khác thường''<br>''Trải bao năm tháng dấu thành còn đây''}}
=== Nghi vấn ===
Bộ sử lâu đời nhất và gần thời An Dương Vương nhất là ''[[
Một số người còn đặt ra giả thuyết rằng An Dương Vương là dòng dõi hoàng tộc [[Thục (nước)|nước Thục]] cổ (nay thuộc tỉnh [[Tứ Xuyên]]), sau khi bị nước Tần xâm chiếm thì tổ tiên của ông chạy xuống phía Nam lập quốc. Tuy nhiên, đây chỉ là giả thuyết mang tính suy diễn vô căn cứ, không được hỗ trợ bởi bất kỳ sử liệu hoặc chứng cứ khảo cổ nào. Bộ sách [[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]] đã chỉ ra điểm vô lý của giả thuyết này: ''"Nước Thục từ năm thứ 5 đời [[Chu Thận Tịnh Vương]] (năm 316 TCN) đã bị [[nhà Tần]] diệt rồi, làm gì còn vua nữa? Huống chi từ Thục đến Văn Lang, còn có đất Kiển Vi (nay thuộc [[Vân Nam]]), đất Dạ Lang, đất Cùng, đất Tác, và đất Nhiễm Mang cách hàng 2 - 3 ngàn dặm, có lẽ nào người Thục vượt qua được các nước ấy mà sang đánh lấy nước Văn Lang?"''<ref>[https://baophapluat.vn/huyen-su-ve-nguon-goc-vua-thuc-phan-an-duong-vuong-post334511.html Huyền sử về nguồn gốc vua Thục Phán – An Dương Vương]</ref>
== Lập quốc ==
:''[[Hùng Vương]] có người con gái nhan sắc tuyệt trần tên là [[Mỵ Châu|Mỵ Nương]]. Vua nước Thục nghe tin, sai sứ cầu hôn. [[Hùng Vương|Vua Hùng]] muốn gả nhưng Lạc Hầu can rằng:'' Thục muốn lấy nước ta, chỉ mượn tiếng cầu hôn đó thôi. ''Không lấy được Mỵ Nương, Thục Vương căm giận, dặn lại con cháu phải diệt [[Văn Lang]] mà chiếm lấy nước. Đời cháu Thục Vương là Thục Phán Thân mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. [[Hùng Vương]] nói:'' Ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao? ''Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang, [[Hùng Vương|vua Hùng]] còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước [[Văn Lang]] mất. [[Giáp Thìn]], năm thứ 1 [257 TCN], vua đã thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là [[Âu Lạc]].<ref>[[Đại Việt sử ký toàn thư|Đại Việt Sử ký Toàn thư]], quyển 1, Kỷ nhà Thục.</ref>''
▲[[Tập tin:Bảo tàng Mỹ thuật Tp (Vườn tượng, tượng An Dương Vương) (9).jpg|nhỏ|phải|200px|Tượng điêu khắc An Dương Vương giương nỏ thần ở Bảo tàng Mỹ thuật Tp.HCM]]
▲:''[[Giao Chỉ]] có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc vương, Lạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc hầu, tự xưng là An Dương vương, trị ở huyện [[Phong Khê]].''<ref name="SKTGC 113">''[[Sử ký|Sử ký tam gia chú]]'', quyển 113, Liệt truyện 53, ''[[:wikisource:zh:史記三家註/卷113|Nam Việt Úy Đà liệt truyện]]''.</ref>
:''"Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng
Tục truyền rằng khi lên ngôi, Thục Phán Thân mới 22 tuổi và làm vua được 50 năm.<ref>
Thục Phán Thân sau khi lấy được [[Văn Lang]] thì nhanh chóng ổn định
= {{Chính|Chiến tranh Tần-Việt}}
Cùng thời kỳ này, bên [[Trung Hoa]], [[Tần Thủy Hoàng]] sáp nhập sáu nước sau nhiều năm hỗn chiến thời [[Chiến Quốc]]. Ông tiếp tục tham vọng xâm chiếm [[Bách Việt]],
[[Tập tin:Qin Empire in the south of Yangtze River (210 BC).png|nhỏ|300px|phải|Bản đồ các khu vực lẻ tẻ do [[nhà Tần]] chiếm được của các nhóm tộc [[Bách Việt]] ở phía Nam [[sông Dương Tử]] sau năm 210 TCN.]]
[[Tập tin:Muiten.jpg|nhỏ|trái|200px|Mũi tên đồng tại Thành Cổ Loa.]]
Năm 218 trước Công nguyên, [[Tần Thủy Hoàng]] huy động 50 vạn quân chia làm năm đạo đi chinh phục [[Bách Việt]]. Để tiến xuống miền Nam, đi sâu vào đất [[Âu Lạc]], đạo quân thứ nhất do tướng [[Sử Lộc]] chỉ huy đã đào con kênh nối [[sông
:''Đóng binh ở đất vô dụng… Tiến không được, thoái không xong. Đàn ông mặc áo giáp, đàn bà phải chuyên chở, khổ không sống nổi. Người ta phải thắt cổ trên cây dọc đường. Người chết trông nhau.''
Theo ''[[Hoài Nam Tử]]'', tướng [[Đồ Thư]] bị giết, quân [[nhà Tần|Tần]] thây phơi máu chảy mấy mươi vạn, nước [[nhà Tần|Tần]] phải lấy tù nhân bị lưu đày để bổ sung quân đội.
Sau gần 10 năm kháng chiến, nhân dân [[Âu Việt]] giành được độc lập. [[Thục Phán|Thục Phán Thân]] củng cố và xây dựng lại đất nước.
==
{{chính|Thành Cổ Loa}}
[[Tập tin:Ceramic xi ou.jpg|nhỏ|phải|250px|Bề mặt ngói ống tại [[Thành Cổ Loa|Cổ Loa]]]]
[[Tập tin:Đền Cuông 12, Diễn An, Diễn Châu, Nghệ An.jpeg|nhỏ|phải|250px|Tượng Rùa tại [[Đền Cuông]].]]
Sau chiến thắng trước quân [[nhà Tần|Tần]], danh tiếng của [[Thục Phán|Thục Phán Thân]] vang vọng khắp vùng. Một trong những thủ lĩnh [[Văn Lang]] là [[Cao Lỗ]], đã giúp [[Thục Phán|An Dương
Nhằm củng cố thêm khả năng phòng thủ quân sự, [[Thục Phán|Thục Phán Thân]] đã cho quân dân ngày đêm xây đắp
Theo truyền thuyết, thành xây nhiều lần nhưng đều đổ. Sau có Rùa [[rùa thần Kim Quy|thần Kim Quy]] hiện lên, bò quanh
Di tích của thành Cổ Loa vẫn còn lưu lại cho đến nay, cách [[Hà Nội|trung tâm Hà Nội]] khoảng
==Sụp đổ==
{{xem thêm|Vấn đề chính thống của nhà Triệu}}
[[Tập tin:Den tho An Duong Vuong tai Co Loa.JPG|nhỏ|phải|200px|Cổng tam quan dẫn vào Đền thờ An Dương Vương tại xã Cổ Loa, Đông Anh, Hà Nội.]]
Theo ''[[Sử ký Tư Mã Thiên]]'', trong khoảng thời gian này 208 [[TCN]] - 207 TCN, quận úy Nam Hải là
Theo truyền thuyết của người Việt thì [[Triệu Vũ vương|Triệu Đà]] dùng kế [[nội gián]] bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, [[Trọng Thủy]], và con gái An Dương Vương là [[Mỵ Châu]]. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, [[Triệu Đà]] đã thành công trong việc chinh phục [[Âu Lạc]], buộc An Dương Vương bỏ chạy và nhảy xuống biển tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương Vương.
[[Cựu Đường thư]] ([[Hậu Tấn]] – [[Lưu Hú]] soạn, 945 SCN), quyển 41, Chí 21, Địa lí 4, dẫn Nam Việt chí (viết thời [[Lưu Tống]], 420 – 479) chép:
:''"[[Triệu Đà|Úy Đà]] đóng đô ở thành Phiên Ngu phát binh sang đánh. (An Dương) Vương có nỏ thần bắn một phát giết một vạn quân Việt. Triệu Đà bèn hòa với vương, rồi sai con mình tên là Thủy làm con tin. An Dương Vương đem con gái tên là Mị Châu gả cho Thủy, Thủy thấy được nỏ thần bèn hủy đi. Kịp khi quân Việt đến liền giết An Dương Vương, chiếm cả nước ấy"''.
Sách [[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục|''Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục'']] chép dẫn theo sách ''Thái bình hoàn vũ ký'', phần "Nam Việt chí" của Nhạc Sử nhà [[Lưu Tống]]:
▲Theo truyền thuyết cả Việt Nam và Trung Quốc thì Triệu Đà dùng kế [[nội gián]] bằng cuộc kết hôn giữa con trai mình, [[Trọng Thủy]], và con gái An Dương vương là [[Mỵ Châu]]. Sau khi nắm được bí mật quân sự của An Dương Vương thông qua con trai, Triệu Đà đã thành công trong việc chinh phục [[Âu Lạc]], buộc An Dương vương bỏ chạy và nhảy xuống biển tự tử, kết thúc thời kỳ An Dương vương.{{efn|[[Cựu Đường thư]]: ''[[Triệu Đà|Úy Đà]] đóng đô ở thành Phiên Ngu phát binh sang đánh. [An Dương] Vương có nỏ thần bắn một phát giết một vạn quân Việt. Triệu Đà bèn hòa với vương, rồi sai con mình tên là Thủy làm con tin. An Dương Vương đem con gái tên là Mị Châu gả cho Thủy, Thủy thấy được nỏ thần bèn hủy đi. Kịp khi quân Việt đến liền giết An Dương vương, chiếm cả nước ấy''.<ref name="CĐT"/>}}{{efn|''Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục'' chép dẫn theo sách ''Thái Bình hoàn vũ ký'', phần "Nam Việt chí" của Nhạc Sử nhà [[Lưu Tống]]: ''An Dương Vương cai trị Giao Châu, Úy Đà đem quân sang đánh. An Dương vương có [[Cao Lỗ|Cao Thông]] giúp đỡ, chế ra cái nỏ, bắn một phát giết chết quân [Nam] Việt hàng vạn người, bắn ba phát giết đến ba vạn. Triệu Đà]] biết rõ duyên cớ, liền lui về đóng ở Vũ Ninh, rồi cho con là Trọng Thủy sang làm tin, xin hòa hảo với nhau. Về sau, An Dương vương đối xử với Cao Thông không được hậu, Cao Thông bỏ đi. An Dương vương có người con gái là Mỵ Châu, thấy Trọng Thủy đẹp trai, liền phải lòng. Về sau, Trọng Thủy dụ dỗ Mỵ Châu đòi xem nỏ thần, Mỵ Châu đem cho xem. Trọng Thủy nhân đấy bẻ hỏng cái lẫy nỏ, rồi lập tức sai người ruổi về báo tin cho Triệu Đà. Triệu Đà lại đem quân sang đánh úp. Khi quân Triệu kéo đến, An Dương vương đem nỏ ra bắn như trước, nhưng nỏ hỏng rồi! Quân Thục chạy tan tác. Triệu Đà phá được Thục.''}} Ngày nay, mẫu truyện lịch sử này đã được liệt vào một trong những dạng chiến tranh gián điệp rất sớm của lịch sử Việt Nam.
[[Tập tin:Đền Cuông, Diễn An, Diễn Châu, Nghệ An.jpeg|nhỏ|trái|300px|Đền thờ An Dương tại xã [[Diễn An]], huyện [[Diễn Châu]], [[Nghệ An]] ([[Đền Cuông]]).]]
Ngày nay, mẫu truyện lịch sử này đã được liệt vào một trong những dạng chiến tranh gián điệp rất sớm của lịch sử Việt Nam.
Về năm mất của triều đại An Dương vương, các tài liệu ghi chép khác nhau. Đa phần sách sử Việt Nam (''Đại Việt sử ký toàn thư'', ''[[Khâm định Việt sử Thông giám cương mục]]'', ''[[Việt sử Tiêu án]]'') đều chép là An Dương vương mất nước năm [[208 TCN]]. Sách giáo khoa của Việt Nam căn cứ vào ''Sử ký'' của [[Tư Mã Thiên]] ghi nước Âu Lạc mất năm 179 TCN. Sở dĩ như vậy vì ''Sử ký'' chép là [[Triệu Đà]] diệt nước [[Âu Lạc]] "sau khi [[Lã hậu]] chết", mà Lã Hậu chết năm 180 TCN, do đó nước [[Âu Lạc]] mất khoảng năm [[179 TCN]]. Truyền thuyết An Dương vương, [[Nỏ liên châu|Nỏ Thần]], và con trai Triệu Đà là Trọng Thuỷ ở rể nước Việt có nhiều chỗ không hợp với ''Sử ký'', mặc dầu ''Sử ký'' là nguồn tư liệu sớm nhất mà các nhà viết sử Việt Nam có được để tham khảo.▼
▲Về năm mất của triều đại An Dương
==Thẻ ngọc "An Dương hành bảo"==
[[Tập tin:Thẻ ngọc thời An Dương Vương nước Âu Lạc.jpg|nhỏ|phải|90px|Thẻ ngọc thời An Dương Vương, có niên đại khoảng những năm 257 - 221 TCN]]
Thẻ ngọc "An Dương hành bảo" được tìm thấy ở thành phố [[Quảng Châu (thành phố)|Quảng Châu]] thuộc lãnh thổ nước [[Nam Việt]] thời cổ. Thẻ ngọc có hình dạng gần chữ nhật, bốn góc thẻ khắc bốn chữ "安陽行寶"<ref>[[Đào Duy Anh]], ''Lịch sử cổ đại Việt Nam''</ref> (An Dương hành bảo), khổ chữ to hơn khổ chữ phía trong mặt thẻ gồm 124 chữ lối cổ trựu. Bản khắc toàn văn sáu mươi (Giáp Tý), (60 chữ [[can chi]]). Xung quanh trang trí khắc đường vằn sóng lượn. Do bị chôn lâu ngày dưới đất nên màu vàng hơi hung hung đỏ. Mặt trái thẻ trang trí đường cong hình móc câu. Nét chạm trên thẻ ngọc An Dương thô.
==Xem thêm==
{{div col|colwidth=30em}}
* [[Cổ Thục]]
* [[Âu Lạc]]
* [[Triệu Vũ Vương]]
* [[Trọng Thủy]]
* [[Mỵ Châu]]
* [[Cao Lỗ]]
* [[Nồi Hầu]]
* [[Lý Ông Trọng]]
{{div col end}}
==Chú thích==
Hàng 118 ⟶ 142:
==Tham khảo==
*
*
* [http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvsktt/dvsktt01.html Đại Việt sử ký toàn thư, quyển I]
==Liên kết ngoài==
Hàng 127 ⟶ 150:
*{{TĐBKVN|26128}}
*
*
*[https://yeusuviet.wordpress.com/2013/04/11/cau-chuyen-thoi-an-duong-vuong/ Câu chuyện lịch sử và truyền thuyết thời An Dương Vương]
*[http://www.viet.rfi.fr/viet-nam/20120914-trong-thuy-my-chau-va-bai-hoc-canh-giac-truoc-ke-thu-xam-luoc Trọng Thủy - Mỵ Châu và bài học cảnh giác xâm lược]
{{start box}}
{{Thứ tự chức vụ
Hàng 136 ⟶ 161:
|sau = [[Nhà Triệu]]}}
{{end box}}
{{Vua nhà Thục}}▼
{{thời gian sống||179 TCN}}▼
{{Lịch sử Việt Nam thời An Dương Vương}}
{{Lịch sử Việt Nam thời Bắc thuộc lần 1}}
▲{{Vua nhà Thục}}
{{Danh sách vua và hoàng đế Việt Nam}}
{{Tổng quan về Việt Nam}}
{{Kiểm soát tính nhất quán}}
[[Thể loại:An Dương Vương| ]]
Hàng 145 ⟶ 173:
[[Thể loại:Triều đại Việt Nam]]
[[Thể loại:Việt Nam cổ đại]]
[[Thể loại:Nhân vật quân sự Việt Nam thời kỳ Tiền độc lập]]▼
[[Thể loại:Người tự sát]]
[[Thể loại:Năm sinh không rõ]]
[[Thể loại:Mất năm 207 TCN]]
[[Thể loại:
[[Thể loại:Năm 207 TCN]]
[[Thể loại:Người Cao Bằng]]
[[Thể loại:Người Tày]]
▲[[Thể loại:Nhân vật quân sự Việt Nam thời kỳ Tiền độc lập]]
[[Thể loại:Mất năm 179 TCN]]
[[Thể loại:Người thành lập thành phố]]
[[Thể loại:Tướng lĩnh Việt Nam]]
|