Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n unpiped links using script
Thẻ: Liên kết định hướng
 
Dòng 5:
}}
{{Việt Nam Dân chủ Cộng hòa}}
'''Việt Nam Dân chủ Cộng hòa''' ('''VNDCCH''') là một [[nhà nước]] ở [[Đông Nam Á]] được Chủ tịch [[Hồ Chí Minh]] tuyên bố thành lập vào ngày [[2 tháng 9]] năm [[1945]] với thủ đô là [[Hà Nội]]. Với Tổng tuyển cử năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức trở thành nhà nước có chủ quyền trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam<ref>[http://thuvienphapluat.vn/archive/Hien-phap/Hien-phap-1946-Viet-Nam-Dan-Chu-Cong-Hoa-vb36134t6.aspx Hiến pháp năm 1946 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]</ref><ref>[http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=890 Hiến pháp năm 1959 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]</ref>, được [[Quốc hội Việt Nam khóa I]] thông qua mặc dù một số vùng [[lãnh thổ]] sau đó bị các lực lượng ngoại quốc và [[nhà nước]] khác [[quản lý]] về hành chính trên thực tế. Cuối [[Chiến tranh Đông Dương|Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất]], lãnh thổ Việt Nam bị chia làm hai vùng tập kết quân sự tạm thời theo [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]]. Theo Hiệp định Genève 1954, vùng lãnh thổ thuộc quản lý hành chính của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà giáp với [[Trung Quốc]] ở phía bắc, [[Lào]] ở phía tây, và phía nam giáp với lãnh thổ quản lý bởi [[Quốc gia Việt Nam]] (tiền thân của [[Việt Nam Cộng hòa]], sau đó được [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]] tiếp quản). Cũng trong giai đoạn này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng được gọi là '''miền Bắc Việt Nam''' ({{Lang-en|North Vietnam|lit=Bắc Việt Nam}}) để chỉ vị trí địa lý của phần lãnh thổ Việt Nam được quản lý bởi nhà nước này theo [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]]. Từ năm [[1954]]–[[1976]], Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là nhà nước độc lập đi theo chế độ [[xã hội chủ nghĩa]].
 
Trong [[Chiến tranh thế giới thứ hai]], [[Việt Nam]] từ chỗ là [[Liên bang Đông Dương|thuộc địa]] của [[Pháp]] đã trở thành [[Đế quốc Việt Nam]] thân [[Đế quốc Nhật Bản|Nhật Bản]] sau khi Pháp đầu hàng và trao toàn bộ [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]] cho [[Đế quốc Nhật Bản|Phát xít Nhật Bản]] vào [[Tháng ba|tháng 3]] năm [[1945]]. Ngay sau khi [[Nhật Bản đầu hàng|Nhật Bản đầu hàng quân Đồng Minh]], bao gồm cả [[Việt Minh]] ở [[Việt Nam]] và [[Cách mạng tháng Tám|Cách mạng tháng 8]] năm [[1945]] thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tuyên bố thành lập tại [[Hà Nội]], chính quyền lâm thời được thiết lập trên toàn bộ đất nước. Chủ tịch [[Hồ Chí Minh]], người lãnh đạo [[Việt Minh]], trở thành người đứng đầu [[chính phủ]] mới và đã ngay lập tức tổ chức cuộc [[Tổng tuyển cử]] toàn quốc vào ngày 06/01/1946 để Việt Nam có [[chính phủ]] và [[nhà nước]] chính danh trên toàn quốc.<ref>https://vtv.vn/chinh-tri/bac-ho-voi-cuoc-tong-tuyen-cu-dau-tien-2021051905575278.htm</ref> Ngay sau khi Pháp quay lại Việt Nam với sự hỗ trợ của Anh và Mỹ, thì [[Chiến tranh Đông Dương|Kháng chiến chống Pháp]] đã nổ ra vào năm [[1946]]. Sau 9 năm chiến tranh, ngày 21 tháng 7 năm [[1954]], Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giành thắng lợi, [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]] được ký kết giữa các bên tham chiến, Việt Nam tạm thời bị chia làm 2 vùng tập kết tạm thời, lấy [[Vĩ tuyến 17 Bắc|vĩ tuyến 17]] làm ranh giới. Lực lượng quân sự của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập kết về [[Miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc Việt Nam]], trong khi đó, [[Quân đội Pháp]] và [[Quân đội Quốc gia Việt Nam]] (thuộc Liên hiệp Pháp) tập kết về [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]], quân Pháp sẽ rút hết khỏi Việt Nam sau 2 năm.
 
[[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]] xác định cuộc [[tổng tuyển cử]] thống nhất lãnh thổ Việt Nam sẽ diễn ra vào năm [[1956]]. [[Người Pháp]] chấp nhận đề nghị của Thủ tướng [[Phạm Văn Đồng]], trưởng phái đoàn đàm phán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa<ref>''The Pentagon Papers'' (1971), Beacon Press, vol. 3, p. 134.</ref>, là cuộc [[tổng tuyển cử]] thống nhất sẽ được đặt dưới sự giám sát của các ủy ban tại chỗ<ref>''The Pentagon Papers'' (1971), Beacon Press, vol. 3, p. 119.</ref>. [[Hoa Kỳ]] không công nhận [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]], đồng thời thực hiện "[[Quá trình can thiệp của Mỹ vào Việt Nam (1948-1975)|Kế hoạch can thiệp]]" nhằm trợ giúp cho [[Quốc gia Việt Nam]] (sau đó là Việt Nam Cộng hòa) từ chối thi hành tuyển cử<ref>''The Pentagon Papers'' (1971), Beacon Press, vol. 3, p. 140.</ref>. Năm 1955, [[Trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955|cuộc trưng cầu dân ý]] bị gian lận đã phế truất Quốc trưởng [[Bảo Đại]] (nguyên là hoàng đế [[nhà Nguyễn]]), sau đó chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]] được thành lập tại [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]] do [[Ngô Đình Diệm]] làm Tổng thống.<ref>https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=475</ref> Đến hạn năm 1956, [[Ngô Đình Diệm]] tuyên bố từ chối thi hành tuyển cử, và cuộc tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam đã không thể diễn ra, khiến lãnh thổ Việt Nam bị chia cắt về mặt nhà nước.<ref>https://nhandan.com.vn/tin-tuc-su-kien/bai-1-cuoc-doi-dau-lich-su-456835</ref> Thậm chí, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn cho rằng hành động của Ngô Đình Diệm còn nhằm biến miền Nam thành [[Chủ nghĩa thực dân mới|thuộc địa kiểu mới]] và [[căn cứ quân sự]] của [[Hoa Kỳ|Mỹ.]]<ref>https://quochoi.vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.aspx?AnPhamItemID=1050</ref>
 
Trong [[Chiến tranh Việt Nam]] (1955–1975), Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (còn gọi là '''Bắc Việt Nam''') được sự hỗ trợ của các đồng minh ở phe [[Hệ thống xã hội chủ nghĩa|Xã hội chủ nghĩa]] gồm [[Liên Xô]] và [[Trung Quốc]] đã chiến đấu chống lại [[quân đội]] của [[Việt Nam Cộng hòa]] và các đồng minh như [[Hoa Kỳ]], [[Úc|Australia]], [[Hàn Quốc]], [[Philippines]], [[Thái Lan]] và [[New Zealand]]. Ở thời điểm cao trào của cuộc chiến, [[Hoa Kỳ]] huy động tới 600.000 quân chiến đấu ở [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]]. Đây là một trong những cuộc chiến tranh khốc liệt nhất kể từ sau [[Thế chiến thứ II]], kéo dài 21 năm. Năm [[1969]], Chính phủ Cách mạng Lâm thời [[Cộng hòa miền Nam Việt Nam]] ra đời (chính phủ do [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]] thành lập) và được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa công nhận là chủ thể có chủ quyền pháp lý tại [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam Việt Nam]]. Chính phủ [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]] là đại diện cho nhân dân [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam]] trong cuộc chiến chống Mỹ, và không từ chối sự thống nhất [[chủ quyền]] trên cả nước. Chiến tranh kết thúc với thắng lợi hoàn toàn của lực lượng [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]] cùng sự hỗ trợ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm [[1975]]. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]] là đại diện của hai nửa Việt Nam về mặt quản lý hành chính ([[Miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc]] và [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam]]) đã thống nhất về mặt Nhà nước thành [[Việt Nam|Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam]] thông qua cuộc [[Tổng tuyển cử]], vào ngày 2 tháng 7 năm [[1976]].
 
== Lịch sử ==
Dòng 23:
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, [[Việt Minh]] tổ chức [[Đại hội Quốc dân]] ở [[Chiến khu Tân Trào|Tân Trào]]. Đại hội này thông qua 10 chính sách lớn của [[Việt Minh]], thông qua Lệnh Tổng khởi nghĩa, quyết định [[Quốc kỳ Việt Nam|Quốc kỳ]] nền đỏ, ở giữa có sao vàng 5 cánh, chọn bài [[Tiến quân ca]] làm [[Quốc ca]] và bầu ra [[Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam]], sau này trở thành [[Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Cách mạng Lâm thời]], do [[Hồ Chí Minh]] làm Chủ tịch<ref name="chinhphu123"/>.
 
Từ 14 tháng 8 năm 1945, một số cán bộ [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Cộng sản Đông Dương]] và [[Việt Minh]] dù chưa nhận được lệnh khởi nghĩa nhưng căn cứ vào tình hình hiện tại và chỉ thị "Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" đã quyết định phát động nhân dân khởi nghĩa tại các tỉnh [[Miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc]], [[Miền Trung (Việt Nam)|miền Trung]] như [[Thanh Hóa]], [[Thái Bình]], [[Khánh Hòa]],... buộc [[Đế quốc Việt Nam]] giao chính quyền cho nhân dân. Cuộc khởi nghĩa lan rộng ra khắp cả nước<ref>{{Chú thích web|url=http://old.thaibinh.gov.vn/ct/introduction/Lists/lshc/View_Detail.aspx?ItemId=1|tiêu đề=Thái Bình tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945|website=Cổng thông tin điện tử tỉnh Thái Bình|ngày truy cập=2018-07-23|archive-date=2018-07-23|archive-url=https://web.archive.org/web/20180723182253/http://old.thaibinh.gov.vn/ct/introduction/Lists/lshc/View_Detail.aspx?ItemId=1|url-status=dead}}</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://baoquangtri.vn/Ch%C3%ADnh-tr%E1%BB%8B/modid/415/ItemID/71792|tiêu đề=Quảng Trị trong những ngày mùa thu năm 1945|website=Quảng Trị Online|tác giả=Nguyễn Ngọc Tuấn|ngày tháng=2013-08-19|ngày truy cập=2018-07-23|archive-date=2018-07-23|archive-url=https://web.archive.org/web/20180723182122/http://baoquangtri.vn/Ch%C3%ADnh-tr%E1%BB%8B/modid/415/ItemID/71792|url-status=dead}}</ref>.
 
Ngày 19 tháng 8 năm 1945, [[Việt Minh]] tổ chức cuộc mít tinh tại Quảng trường [[Nhà hát Lớn Hà Nội]]. Đại diện Việt Minh tuyên bố: [[Tổng khởi nghĩa Hà Nội|Tổng khởi nghĩa]]! Sau đó, 1 cánh tiến thẳng tới [[Bắc Bộ Phủ|Phủ Khâm sai]], cơ quan đầu não của [[Chính phủ Đế quốc Việt Nam]] tại [[Miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc]], và nhanh chóng làm chủ toàn bộ [[Vùng|khu vực]] này. Lính bảo vệ Phủ đã hạ [[vũ khí]] mà không kháng cự. Khâm sai Bắc Kỳ [[Nguyễn Xuân Chữ]] (người mới đứng ra thay thế ông [[Phan Kế Toại]]) bị bắt giữ và đưa về An toàn khu tại Hà Đông<ref>[http://tapchihuongnghiep.com.vn/PrintPreview.aspx?ID=4408 Hà Nội, ngày 19 tháng 8 năm 1945] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20140226053124/http://tapchihuongnghiep.com.vn/PrintPreview.aspx?ID=4408 |date = ngày 26 tháng 2 năm 2014}}, trích hồi ký của Lê Trọng Nghĩa, Tạp chí Hướng nghiệp & Hoà nhập.</ref>.
 
Trong [[Cách mạng tháng Tám]], [[Đảng Cộng sản Đông Dương]] ([[tổ chức]] nòng cốt của [[Việt Minh]]) đóng vai trò chỉ đạo chung thống nhất, đưa ra các quyết sách tổ chức [[Tổng khởi nghĩa Hà Nội|Tổng khởi nghĩa giành chính quyền]] từ tay chính quyền [[Đế quốc Việt Nam]] thân Nhật và [[Đế quốc Nhật Bản]], dù trên thực tế, ở một số [[Tỉnh thành Việt Nam|tỉnh thành]] chưa có hay khôi phục lại tổ chức đảng. Tại [[Miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc]], một số tỉnh chưa có tổ chức đảng, nhưng [[Việt Minh|Mặt trận Việt Minh]] hoạt động rất mạnh. Tại [[Miền Trung (Việt Nam)|miền Trung]], hoạt động của Việt Minh và Đảng Cộng sản khá mạnh. Trong khi đó, ở [[Nam Bộ Việt Nam|Nam Bộ]], hoạt động của [[Việt Minh]] yếu hơn, Đảng Cộng sản chưa khôi phục đầy đủ sau [[Nam Kỳ khởi nghĩa]]. Trong [[Cách mạng tháng Tám]], tổ chức Việt Minh đã thu hút được cả lực lượng [[Thanh niên tiền tuyến]] do [[Chính phủ Đế quốc Việt Nam]] thành lập gia nhập Mặt trận Việt Minh. Tại một số tỉnh [[Nam Bộ Việt Nam|Nam bộ]], [[Thanh niên Tiền phong|Thanh niên tiền phong]] đóng vai trò quan trọng giành chính quyền<ref>[http://ubmttq.hochiminhcity.gov.vn/TinTuc/thongtinkhac/Lists/Posts/Post.aspx?List=1db6fada-2f4d-484d-b1a8-afb5e73b4a85&ID=548&Web=244ac557-7073-4a30-a303-9c1cb4e71212 Năm 1945, Thanh niên Tiền phong là thành viên của Mặt trận Việt Minh] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20171113055131/http://ubmttq.hochiminhcity.gov.vn/TinTuc/thongtinkhac/Lists/Posts/Post.aspx?List=1db6fada-2f4d-484d-b1a8-afb5e73b4a85&ID=548&Web=244ac557-7073-4a30-a303-9c1cb4e71212 |date=2017-11-13 }}, 09/08/2013, Bùi Hiển, Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam TP.HCM.</ref>.
 
Ngày [[27 tháng 8]] năm [[1945]], theo đề nghị của [[Hồ Chí Minh]], [[Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam]] được cải tổ thành [[Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]. Nhiều Ủy viên [[Việt Minh]] trong [[Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam]] đã tự nguyện rút ra khỏi Chính phủ để mời thêm nhiều nhân sĩ ngoài [[Việt Minh]] tham gia<ref name="chinhphu123">{{Chú thích web|url=http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=698&articleId=10001588|tiêu đề=I - Từ Ủy ban dân tộc giải phóng đến Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|website=Cổng thông tin điện tử Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam|cuốn=Giai đoạn 1945-1954: Kháng chiến và kiến quốc}}</ref>.
 
Ngày [[30 tháng 8]] năm [[1945]], [[Bảo Đại]] đọc [[Chiếu thoái vị của Bảo Đại|Tuyên ngôn Thoái vị]] trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa [[Ngọ Môn (hoàng thành Huế)|Ngọ Môn]] và sau đó trao [[Bửu tỷ triều Nguyễn|ấn tín]], quốc bảo của hoàng triều cho ông [[Trần Huy Liệu]]. Bảo Đại trở thành "công dân Vĩnh Thụy". Bản [[Chiếu thoái vị của Bảo Đại|Tuyên ngôn Thoái vị]] có câu nói nổi tiếng: "''Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị''" <ref>Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Nguyễn Phước Tộc Xuất Bản, 1990, trang 186-188.</ref><ref>{{Chú thích web|url=http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/le-thoai-vi-cua-hoang-de-bao-dai-qua-loi-ke-cua-nha-tho-huy-can-3271851.html|tiêu đề=Lễ thoái vị của Hoàng đế Bảo Đại qua lời kể của nhà thơ Huy Cận|ngày tháng = ngày 30 tháng 8 năm 2015 |ngày truy cập = ngày 30 tháng 8 năm 2015 |website=VnExpress}}</ref>.
 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập vào ngày [[2 tháng 9]] năm [[1945]] (đây cũng là [[ngày Quốc khánh]] của nước [[Việt Nam|Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam]] hiện nay), sau [[Cách mạng tháng Tám]] dưới sự lãnh đạo của [[Việt Minh|Mặt trận Việt Minh]].
 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành [[Bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa I|bầu cử Quốc hội đầu tiên]] vào ngày [[6 tháng 1]] năm [[1946]]. [[Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam|Hiến pháp]] thông qua ngày [[9 tháng 11]]. Trong giai đoạn đầu khi thành lập chính quyền toàn quốc, Việt Minh mà Đảng Cộng sản làm nòng cốt giữ vai trò lãnh đạo. Trong thời gian ngắn, chính quyền bao gồm nhiều tổ chức, [[đảng phái chính trị]] tham gia ở cấp trung ương và địa phương ([[Việt Nam Quốc dân Đảng|Việt Quốc]], [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội|Việt Cách]], [[Đại Việt Quốc dân Đảng|Đại Việt]], Trốtxkit, [[Cao Đài]], Hòa Hảo,...). Sau vài năm hoạt động bí mật, Đảng Cộng sản ra hoạt động bán công khai trong tổ chức Việt Minh và Liên Việt, và từ năm 1951, hoạt động công khai, chính thức giữ vai trò lãnh đạo Nhà nước. Tham gia chính quyền sau năm [[1954]] còn có [[Đảng Dân chủ Việt Nam|Đảng Dân chủ]] và [[Đảng Xã hội Việt Nam|Đảng Xã hội]] trong [[Mặt trận Tổ quốc Việt Nam]], do Đảng Lao động lãnh đạo.
 
=== Giai đoạn 1945–1946 ===
 
==== Pháp quay trở lại Việt Nam ====
Ngày 28 tháng 11 năm 1943, trước [[Hội nghị Tehran]] ([[Iran]]), [[Tổng thống Hoa Kỳ|Tổng thống Mỹ]] đã có ý kiến đặt [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]] dưới sự [[quản lý]] quốc tế. Liên Xô đã chấp thuận đề xuất này. Nhưng sau đó, [[Hoa Kỳ|Mỹ]] ủng hộ [[Pháp]] để lôi kéo Pháp vào mặt trận chống Liên Xô. Mỹ cũng nhường chính quyền Tưởng Giới Thạch vào [[Miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc]] giải giáp quân đội Nhật.
 
Sau khi [[Chiến dịch Đông Dương (1945)|Nhật đảo chính Pháp]] và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, ngày [[11 tháng 3]] năm [[1945]], [[Bảo Đại]] ra đạo dụ "Tuyên cáo Việt Nam độc lập", tuyên bố hủy bỏ [[Hòa ước Giáp Thân (1884)|Hòa ước Patenôtre]] ký với Pháp năm [[1884]], tuyên bố khôi phục chủ quyền Việt Nam, thống nhất [[Bắc Kỳ]], [[Trung Kỳ]] và [[Nam Kỳ]]<ref>[http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&News=7258&CategoryID=42 Tản mạn nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim qua những trang hồi ký (Kỳ II): Chính khách bất đắc dĩ?] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20140226174614/http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&News=7258&CategoryID=42 |date=2014-02-26 }}, Trần Văn Chánh, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6-7 (104-105), 2013.</ref>.
 
Ngày [[24 tháng 3]] năm [[1945]], sau khi [[Nhật đảo chính Pháp|Nhật đảo chính Pháp tại Đông Dương]], [[Charles de Gaulle|de Gaulle]] đã tuyên bố khẳng định chủ quyền Pháp tại Đông Dương, nhưng sẽ cho [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]] tự trị và thực thi nền tự trị với Hội đồng Liên bang được thành lập với không quá 50% là người bản xứ.
 
Ngày [[7 tháng 4]] năm 1945, [[Bảo Đại]] đã ký Đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần [[Chính phủ Việt Nam#Lịch sử|nội các Trần Trọng Kim]] và ngày [[12 tháng 5]], giải thể [[Viện Dân biểu Trung Kỳ]]. Tháng 6 năm 1945, chính phủ [[Trần Trọng Kim]] đặt Quốc hiệu là [[Đế quốc Việt Nam]].
Dòng 50:
Tướng Nhật, Tscuchihashi, cho rằng chỉ cần Việt Nam độc lập trên danh nghĩa hơn là thực chất, và chính phủ mới của Việt Nam phải được Nhật kiểm soát chặt chẽ<ref>Masaya Shiraishi trích trong L Indochine française (Đông Dương thuộc Pháp) của Paul Isoart, Nhà xuất bản Presses Universitaires Françaises, 1982.</ref>. Theo tác giả Daniel Grandcléme, thoạt đầu [[Phạm Quỳnh]] được chỉ định tạm quyền nhưng ông này quá thân Pháp, ngoài ra ông ta thấy ngay "nền độc lập" có những giới hạn như giống như hồi còn chế độ bảo hộ Pháp: Không có tự chủ về ngoại giao, không có quân đội, không có độc lập tài chính... Nhật liền chọn một nhân vật ôn hoà hơn và gần gũi với Nhật Bản. Đó là nhà sử học [[Trần Trọng Kim]], đang ở Singapore. Nhà vua Bảo Đại chẳng có vai trò gì trong việc chỉ định này<ref>Bảo Đại, hay là những ngày cuối cùng của vương triều An Nam, Daniel Grandcléme. Nhà xuất bản Phụ nữ. Trang 184.</ref>.
 
Theo [[Trần Trọng Kim]], ông được vua [[Bảo Đại]] yêu cầu lập chính phủ mới vì theo ý nhà vua "''Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó với mọi việc... Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.''" <ref name="trongkim"/>. Thành viên [[nội các]] do Trần Trọng Kim lựa chọn, chứ không phải Nhật Bản bắt phải dùng những người của họ đã định trước<ref name="trongkim">{{Chú thích web |url=http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/mot-con-gio-bui-hoi-ky-cua-le-than-tran-trong-kim |ngày truy cập=2015-09-19 |tựa đề=Một cơn gió bụi, Chương IV: Chính phủ Việt Nam và tình thế trong nước |archive-date = ngày 19 tháng 9 năm 2016 |archive-url=https://web.archive.org/web/20160919055213/http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/mot-con-gio-bui-hoi-ky-cua-le-than-tran-trong-kim }}</ref>. Để chuẩn bị nội các mới, Bảo Đại hai lần gửi điện vào [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] mời [[Ngô Đình Diệm]] ra [[Huế]], nhưng cả hai bức điện đều bị [[tình báo]] Nhật ngăn chặn, vì thật ra phương án sắp đặt cho hoàng thân [[Cường Để]] (1882–1951) lên ngôi vua và Ngô Đình Diệm giữ chức Thủ tướng trước đó không lâu đã bị giới lãnh đạo quân sự Nhật hủy bỏ, do không muốn gây nhiều xáo trộn, để thay vào bằng kế hoạch Bảo Đại–Trần Trọng Kim cũng được chuẩn bị sẵn từ hơn một năm trước. Có ý kiến cho rằng ở Việt Nam, đa số quần chúng tỏ ra thờ ơ lạnh nhạt với sự "độc lập" dưới chế độ quân quản của quân đội Nhật<ref name=nghean>[http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/tan-man-nhan-vat-lich-su-tran-trong-kim-qua-nhung-trang-hoi-ky Tản mạn nhân vật lịch sử Trần Trọng Kim qua những trang hồi ký] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20160323160118/http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/tan-man-nhan-vat-lich-su-tran-trong-kim-qua-nhung-trang-hoi-ky |date = ngày 23 tháng 3 năm 2016}}, Trần Văn Chánh, Tạp chí Văn hóa Nghệ An, 26 Tháng 4 2014</ref>.
 
Ngày [[16 tháng 8]] năm 1945, [[Trần Trọng Kim]] tuyên bố "bảo vệ độc lập" giành được 9 tháng 3, và ngày 18 tháng 8 dự tính tạo ra một ủy ban giải phóng dân tộc, bao gồm tất cả các đảng phái chính trị để lãnh đạo việc giành lại độc lập cho Việt Nam<ref>Bảo Đại,Con rồng Việt Nam, California: Xuân Thu, 1990, tr. 177</ref>. Theo lời khuyên của ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, [[Bảo Đại]] gửi thông điệp cho [[Harry S. Truman|Tổng thống Truman]], vua nước Anh, [[Tưởng Giới Thạch|Thống chế Tưởng Giới Thạch]], [[Charles de Gaulle|Tướng de Gaulle]] đề nghị công nhận độc lập của Việt Nam. Tuy nhiên đến 24 tháng 8 ông đã thực hiện câu trả lời Hội đồng Cơ mật quyết định thoái vị "để không phải là một trở ngại cho sự giải phóng của đất nước"<ref name="Stéphane Just 1979">Stéphane Just: A propos d'une possibilité théorique et de la lutte pour la dictature du prolétariat trên La Vérité" n°588 (Septembre 1979).</ref>.
Dòng 65:
Ngày 28 tháng 2 năm 1946, tại [[Trùng Khánh]], Pháp ký với [[Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949)|Chính phủ Trung Hoa Dân quốc]] của [[Tưởng Giới Thạch]] Hiệp ước Hoa - Pháp để [[Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc|quân đội Trung Hoa]] rút về nước, và đổi lại Pháp trả lại các [[tô giới]] và [[nhượng địa]] của Pháp trên đất Trung Hoa cũng như nhượng cho Trung Hoa một số quyền lợi tại miền Bắc Việt Nam như việc khai thác một đặc khu tại cảng [[Hải Phòng]] và miễn thuế cho hàng hóa Trung Hoa vận chuyển qua Việt Nam.
 
Trong thời gian đầu, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết chống lại việc Pháp tái lập chủ quyền ở [[Bán đảo Đông Dương|Đông Dương]]. Sau đó, theo quan điểm của Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (đã lui vào hoạt động bí mật), tháng 3 năm 1946, nếu Pháp cho Đông Dương tự trị theo tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945 thì kiên quyết đánh, nhưng nếu cho Đông Dương tự chủ thì hòa để phá tan âm mưu của "bọn Tàu trắng, bọn phản động Việt Nam và bọn phát xít Nhật còn lại". Đến ngày [[6 tháng 3]], 1946, Chính phủ ký với Pháp [[Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt (1946)|Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946]], cho phép quân đội Pháp ra Bắc thay thế quân [[Tên gọi Trung Quốc|Trung Hoa]] giải giáp [[quân đội Nhật Bản|quân đội Đế quốc Nhật Bản]]. Pháp hứa sẽ rút hết quân trong thời hạn 5 năm, mỗi năm rút 3.000 quân. Ngược lại, Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do trong [[Liên bang Đông Dương]] và trong khối [[Liên hiệp Pháp]], có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Trước đó Pháp và Trung Hoa đã ra thỏa thuận tại Trùng Khánh (Hiệp ước Hoa - Pháp), đồng ý cho quân Pháp ra miền Bắc Việt Nam (28 tháng 2) nhưng khi quân Pháp đổ bộ vào Hải Phòng đã xung đột với quân Trung Hoa dân quốc và lực lượng quân sự địa phương của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
 
Một số thành viên trong Chính phủ Liên hiệp thuộc Việt Quốc, Việt Cách,... không tán thành việc này, đã lên tiếng phản đối, dân chúng cũng có người băn khoăn, nhưng Chủ tịch [[Hồ Chí Minh]] đã bình tĩnh giải thích và động viên đồng bào để đồng bào hiểu rõ "cần phải biết chịu đựng hy sinh để mưu sự nghiệp lớn"<ref name="tuyengiao">[http://www.tuyengiao.vn/Home/Tuyen-truyen/27019/Ba-quyet-dinh-lich-su-cua-Chu-tich-Ho-Chi-Minh Ba quyết định lịch sử của Chủ tịch Hồ Chí Minh!], Trần Thanh Mai, Tạp chí của Ban Tuyên giáo Trung ương, số ra ngày 18/12/2010, Trích: "Tuy nhiên, khi biết tin Hiệp định sơ bộ được ký kết, dư luận các đảng phái quốc gia và thân nước ngoài như Việt Cách, Việt Quốc đã lên tiếng phản đối, nhân dân cũng còn chỗ băn khoăn, thì Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bình tĩnh giải thích và động viên đồng bào rằng: cần phải biết chịu đựng hy sinh để mưu sự nghiệp lớn. Đành phải hy sinh không gian để tranh thủ thời gian…và nhất là "phải biết giành thắng lợi từng phần"."</ref>. Mặc dù Hiệp định có chữ ký của [[Vũ Hồng Khanh]] nhưng đa số lãnh đạo Việt Quốc rút sự ủng hộ của họ cho chính phủ Hồ Chí Minh để phản đối, chống lại những gì họ gọi là "thân Pháp" trong chính sách của Việt Minh. [[Bảo Đại]] rời khỏi đất nước vào ngày 18 tháng 3, ngày quân Pháp vào Hà Nội, theo phái đoàn ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Trùng Khánh để tái khẳng định tình hữu nghị Việt - Trung và để thăm dò việc Tưởng Giới Thạch muốn hai nước sẽ có quan hệ thế nào sau khi ký Hiệp ước Hoa-Pháp. Một hội nghị liên tịch được tổ chức để khai thông các bất đồng dẫn đến việc thành lập [[Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam]]<ref>United States – Vietnam Relations, 1945–1967: A Study Prepared by the Department of Defense/I. B.</ref>.
Dòng 73:
==== Ký kết [[Tạm ước Việt - Pháp]] ====
{{chính|Tạm ước Việt - Pháp}}
Ngày [[31 tháng 5]] năm 1946, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu khởi hành sang Pháp tham dự [[Hội nghị Fontainebleau 1946|Hội nghị Fontainebleau]] tiếp tục đàm phán về các điều khoản đề ra theo Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3. Cùng ngày, [[Chủ tịch]] [[Hồ Chí Minh]] cũng lên đường sang Pháp tiếp xúc với chính giới Pháp và cộng đồng người Việt tại Pháp. Nội dung chương trình nghị sự được hai đoàn thỏa thuận là sẽ thảo luận về các vấn đề như (đã nêu tại Hiệp định sơ bộ 6/3)<ref>{{Chú thích web |url=http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp?topic=168&subtopic=463&leader_topic=981&id=BT19121236285 |ngày truy cập=2013-09-18 |tựa đề=CÙNG TRUNG ƯƠNG ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945 - 1954) |archive-date = ngày 20 tháng 11 năm 2015 |archive-url=https://web.archive.org/web/20151120174444/http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/tulieuvedang/details.asp?topic=168&subtopic=463&leader_topic=981&id=BT19121236285 }}</ref>:
*Địa vị của Việt Nam trong khối Liên hiệp Pháp, về quan hệ ngoại giao của Việt Nam.
*Quan niệm tổng quát về Liên bang Đông Dương.
Dòng 79:
*Chi tiết về Liên bang Đông Dương và vấn đề quyền lợi kinh tế của Pháp ở Đông Dương.
*Dự thảo Hiệp ước.
[[Hội nghị Fontainebleau 1946|Hội nghị Fontainebleau]] sau đó diễn ra kéo dài hơn hai tháng, từ [[6 tháng 7]] tới [[10 tháng 9]] năm 1946 nhưng không đem lại kết quả cụ thể nào vì hai bên đã bế tắc ở hai điểm bất đồng then chốt<ref name="How">Tønnesson, Stein. ''Vietnam 1946: How the War Began''. Berkeley, CA: California University Press, 2010. tr. 83-85.</ref>:
*Việc thống nhất [[Nam Kỳ]] vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bao gồm [[Bắc Kỳ]] và [[Trung Kỳ]]).
*Độc lập chính trị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Quan điểm của Pháp bác bỏ độc lập mà chỉ xét tự trị hay độc lập trong khuôn khổ [[Liên hiệp Pháp]]. Hơn nữa họ đòi là phải tái lập trật tự trước tiên rồi sau đó sẽ mở cuộc [[trưng cầu dân ý]] ở [[Nam Kỳ]] về vấn đề thống nhất Nam Kỳ vào nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Điểm gây nhiều khó khăn nhất là việc Chính phủ Pháp đã đơn phương cho phép thành lập [[Cộng hòa tự trị Nam Kỳ|Nam Kỳ quốc]] theo tinh thần [[Tuyên bố ngày 24 tháng 3 năm 1945]] của tướng De Gaulle, tách rời khu vực này khỏi những phong trào độc lập ở hai miền Bắc và Trung. Ngày [[27 tháng 5]] [[Toàn quyền Đông Dương|Cao ủy Đông Dương]] [[Georges Thierry d'Argenlieu|Georges D'Argenlieu]] lại còn thông qua việc thành lập [[Xứ Thượng Nam Đông Dương]], chia cắt Việt Nam thành nhiều mảnh<ref name="Chương3">Lê Đình Chi. ''Người Thượng Miền Nam Việt Nam''. Gardena, CA: Văn Mới, 2006. tr. 569-612.</ref><ref name="Anarchy">Duncanson, Dennis. ''Government and Revolution in Vietnam''. New York: Oxford University Press, 1968. tr. 165.</ref>.
[[Tập tin:Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris.jpg|nhỏ|phải|200px|[[Hồ Chí Minh]] và [[Phạm Văn Đồng]] tại Paris, 1946.]]
Việt Nam nhượng bộ về mọi mặt: [[kinh tế]], [[tài chính]] và [[quân sự]] nhưng phái đoàn Việt Nam đòi Pháp ấn định thời hạn để thực hiện cuộc [[trưng cầu dân ý]] ở Nam Kỳ. Thấy Pháp chần chừ không trả lời dứt khoát, phái đoàn [[Việt Nam]] bỏ bàn hội nghị ra về ngày [[13 tháng 9]]. [[Hội nghị Fontainebleau 1946|Hội nghị Fontainebleau]] vì vậy tan vỡ.
 
Tuy nhiên Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Bộ Thuộc địa Pháp Marius Moutet không chấp nhận thất bại. Trong khi Phạm Văn Đồng bỏ về nước, Hồ Chí Minh, [[Hoàng Minh Giám]] và [[Dương Bạch Mai]] nán lại [[Paris]]. Nhằm cứu vớt hòa bình lần cuối Hồ Chí Minh thảo một bản nghị ước vào chiều ngày 11 và trao cho Marius Moutet<ref>Pierre Quatrpoint. Sự mù quáng của tướng De Gaulle đối với cuộc chiến ở Đông Dương. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Hà Nội. 2008. trang 77 ''(bản tiếng Việt do Đặng Văn Việt dịch)''.</ref>. Ba ngày sau, [[14 tháng 9]] năm [[1946]], Marius Moutet hồi đáp với một bản nghị ước khác. Đạt được đồng thuận, Hồ Chí Minh đã đến tư dinh của Marius Moutet lúc nửa đêm ngày [[14 tháng 9]] năm [[1946]] để ký văn bản này, tức [[Tạm ước Việt - Pháp]] (''Modus vivendi'')<ref name="How"/>.
Dòng 91:
 
====Kêu gọi sự ủng hộ của các cường quốc====
Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm ([[Tổng thống Hoa Kỳ]] [[Harry S. Truman|Harry Truman]]<ref>Có thể xem nội dung bức thư (bằng tiếng Anh) tại [http://rationalrevolution.net/war/collection_of_letters_by_ho_chi_.htm]. Bức thư này không được trả lời cũng như không được công bố trước công chúng tới tận năm 1972.</ref>, lãnh tụ Liên Xô [[Iosif Vissarionovich Stalin|Stalin]], [[Tổng thống Pháp]] [[Léon Blum]], Bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp,…).
 
==== Chiến tranh bùng nổ ====
Đầu tháng 11 năm 1946, xung đột quân sự đầu tiên nổ ra tại [[Hải Phòng]] do Pháp và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tranh chấp quyền kiểm soát tất cả các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. Hai ngày sau, Tướng [[Jean Étienne Valluy|Jean-Étienne Valluy]], Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương, lệnh cho quân Pháp chiếm toàn quyền kiểm soát thành phố. Ngày 23 tháng 11, Đại tá [[Pierre Louis Dèbes]] gửi tối hậu thư yêu cầu người Việt ra khỏi khu phố Tàu của Hải Phòng và hạ vũ khí. Khi không có phản hồi, Dèbes lệnh cho tàu chiến Pháp bắn phá thành phố, trong một buổi chiều đã giết chết hơn 6.000 người dân<ref name="inerventionandrevolution">{{chú thích sách
| last =Barnet
| first =Richard J.
Dòng 118:
Ngày [[12 tháng 12]], [[Léon Brum]], [[thủ tướng Pháp|Thủ tướng]] mới của Pháp tuyên bố ý định giải quyết xung đột ở Đông Dương theo cách sẽ trao lại độc lập cho Việt Nam. Ba ngày sau, Hồ Chí Minh đưa [[Sainteny]] một bức thông điệp gửi Brum với các gợi ý cụ thể về cách giải quyết xung đột. Sainteny đánh điện bức thông điệp vào Sài Gòn, yêu cầu chuyển tiếp tới [[Paris]].
 
Trong khi chính phủ Pháp đang do dự về yêu cầu của [[Toàn quyền Đông Dương|Cao ủy Đông Dương]] [[Georges Thierry d'Argenlieu|Georges D'Argenlieu]] về việc tăng quân và lập tức hành động quân sự chống lại người Việt, Valluy, người có chung quyết tâm với d'Argenlieu về việc giữ sự hiện diện của Pháp tại Đông Dương, đã quyết định rằng cần phải khiêu khích Hà Nội nhằm tạo xung đột và đưa Paris vào sự đã rồi. Ngày [[16 tháng 12]], ông lệnh cho tướng [[Morlière]] phá các chướng ngại vật mà Việt Minh dựng trong thành phố. Khi bức điện của Hồ Chí Minh gửi Brum vào đến [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]], Vallue viết thêm bình luận của mình, cảnh báo rằng sẽ nguy hiểm nếu trì hoãn các hành động quân sự cho đến năm sau. Đến ngày 19, bức điện mới đến Paris, khi đó đã quá muộn.
 
Ngày [[17 tháng 12]], quân Pháp với [[xe tăng]] yểm trợ vào các đường phố Hà Nội để phá các công sự mà Việt Minh dựng trong những ngày trước đó, gây ra vụ thảm sát ở [[phố Hàng Bún]] (Hà Nội), rồi dàn quân ra chốt giữ từ cổng thành Hà Nội đến tận cầu Long Biên và bao vây gây sức ép đồn Công an quận 2 của Hà Nội. Người Việt không phản ứng. Hôm sau, Pháp ra một tối hậu thư đòi chấm dứt dựng chướng ngại vật trên phố. Chiều hôm đó, Pháp ra tối hậu thư thứ hai tuyên bố rằng từ ngày 20, quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội. Đáp lại, tối hôm đó, các lực lượng Việt Minh bắt đầu chặn mọi ngả đường từ ngoại ô vào thành phố. Sáng hôm sau (ngày [[19 tháng 12]]), Pháp ra tối hậu thư thứ ba, đòi chính phủ Việt Nam đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của Tự vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành phố.
Dòng 134:
{{chính|Hiệp định Genève}}
[[Tập tin:Gen-commons.jpg|phải|nhỏ|250px| [[Hiệp định Genève, 1954|Hội nghị Genève]].]]
Năm [[1954]], quân viễn chinh [[Pháp]] bị đánh bại tại [[chiến dịch Điện Biên Phủ|trận Điện Biên Phủ]] trong khi Pháp đang đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về việc chấm dứt chiến tranh tại Đông Dương.
 
Lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại bàn đàm phán là: Pháp phải thừa nhận chủ quyền và độc lập của Việt Nam, Campuchia và Lào và rút quân đội khỏi 3 nước này; tiến hành [[tổng tuyển cử]] ở 3 nước để thành lập các chính phủ thống nhất. Những cuộc tuyển cử trên phải được tiến hành với điều kiện tất cả các đảng phái và tổ chức yêu nước được tự do hoạt động dưới sự giám sát của các ủy ban địa phương. Nếu các điều kiện trên được chấp nhận chính phủ các nước Đông Dương đồng ý xem xét vấn đề gia nhập khối [[Liên hiệp Pháp]]. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị tham gia đàm phán có đại diện Chính phủ kháng chiến [[Lào]], [[Campuchia]] nhưng các nước phương Tây từ chối.
 
Theo [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève về Việt Nam]] được ký kết giữa đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Liên hiệp Pháp, quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và quân đội Liên hiệp Pháp phải đình chỉ chiến sự. [[Việt Nam]] tạm thời bị chia thành hai vùng có giới tuyến là [[vĩ tuyến 17 Bắc|vĩ tuyến 17]] trong 2 năm. Vĩ tuyến 17 được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời ([[tiếng Anh]]: ''military demarcation line'') chia Việt Nam làm hai vùng tập kết. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tập trung về miền Bắc Việt Nam; Chính quyền và quân đội khối Liên hiệp Pháp tập trung về miền Nam Việt Nam. [[Quốc gia Việt Nam]] (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa) không ký vào Hiệp định Genève với lý do hiệp định "gây chia cắt Việt Nam" <ref>{{Chú thích web |url=http://www.vietbao.com/D_1-2_2-282_4-67554/ |ngày truy cập=2014-05-26 |tựa đề=Lịch sử Việt Nam: Từ Bảo Đại Hồi 2 Tới Ngô Đình Diệm |archive-date=2013-08-05 |archive-url=https://web.archive.org/web/20130805211707/http://vietbao.com/D_1-2_2-282_4-67554/ |url-status=dead }}</ref> và đẩy Quốc gia Việt Nam vào thế nguy hiểm<ref name=quansu>Quân sử (QLVNCH) tập 4. NXb Đại Nam. Chương 3: Các diễn tiến trong việc hình thành quân đội quốc gia. Trang 202.</ref>. Hiệp định Genève 1954 không nhắc đến [[Quốc gia Việt Nam]] (État du Viêt Nam, State of Vietnam) hay [[Việt Nam Cộng hòa]] (Republic of Vietnam) vốn chưa tồn tại (thành lập năm 1955)<ref>{{Chú thích web |url=http://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/genevacc.htm |ngày truy cập=2014-05-27 |tựa đề=Xem toàn văn hiệp định Genève 1954 |archive-date=2011-11-29 |archive-url=https://web.archive.org/web/20111129214558/http://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/genevacc.htm |url-status=dead }}</ref><ref>{{Chú thích web |url=http://www.fordham.edu/halsall/mod/1954-geneva-indochina.html |ngày truy cập=2014-05-26 |tựa đề=bản tuyên bố cuối cùng |archive-date=2014-08-14 |archive-url=https://web.archive.org/web/20140814162014/http://www.fordham.edu/halsall/mod/1954-geneva-indochina.html |url-status=dead }}</ref>. Trên thực tế, [[Quốc gia Việt Nam]] được nhận định là không có đủ thẩm quyền để ký kết do vẫn là thành viên của [[Liên hiệp Pháp]].<ref>Bernard B. Fall, The Two Vietnams: A Political and Military Analysis (New York: Praeger, 1964)</ref> Do đó, mặc dù không ký kết nhưng [[Quốc gia Việt Nam]] và hậu thân của nó là [[Việt Nam Cộng hòa]] vẫn phải có trách nhiệm thi hành Hiệp định và các văn bản liên quan do Pháp ký hoặc không có tuyên bố phản đối.<ref>https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pentagon/pent13.htm {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20160314054422/https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/pentagon/pent13.htm |date=2016-03-14 }} The Pentagon Papers Gravel Edition Volume 1, Chapter 5, "Origins of the Insurgency in South Vietnam, 1954-1960" (Boston: Beacon Press, 1971)</ref>
 
Việc tập kết quân đội hai phía dự kiến hoàn thành trong thời hạn 300 ngày. Các lực lượng Pháp rút khỏi Lào trong 120 ngày, Campuchia 90 ngày. Các đơn vị quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng rút khỏi Lào, Campuchia. Tại Lào, quân đội kháng chiến tập kết tại Phong sa lỳ và Sầm Nưa. Các lực lượng kháng chiến Campuchia phục viên tại chỗ. Các chính phủ Vương quốc Lào và Campuchia bảo đảm cho mọi công dân hưởng quyền tự do ghi trong Hiến pháp. Bầu cử tự do được tổ chức tại Campuchia và Lào vào năm 1955 và tại Việt Nam theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định là tháng 7 năm 1956.
 
Ngay sau thời khắc chia Việt Nam ra làm hai vùng tập trung quân sự, đã diễn ra cuộc di cư lớn của gần 900.000 người dân miền Bắc, mà đa số là người [[Giáo hội Công giáo Rôma|Công giáo]], vào miền Nam, với niềm tin "theo [[Chúa]] vào Nam". Một số người tin theo lời người Pháp và Mỹ cho rằng họ sẽ bị những chính sách của chính quyền miền Bắc bức hại bản thân họ. Khoảng 140 ngàn người khác ở miền Nam, gồm phần lớn là lực lượng kháng chiến của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại miền Nam hoặc những người đi theo [[chủ nghĩa cộng sản]], tập kết ra miền Bắc theo [[Hiệp định Genève, 1954|Hiệp định Genève]]. Theo Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève, ranh giới quân sự tạm thời ở vĩ tuyến 17 không phải là biên giới chính trị hay lãnh thổ. Điều 6 ghi nhận: ''"... đường ranh giới quân sự tạm thời này không thể diễn giải bằng bất cứ cách nào rằng đó là một biên giới phân định về chính trị hay lãnh thổ."'' <ref>Tiếng Anh: 6. The Conference recognizes that the essential purpose of the agreement relating to Viet-Nam is to settle military questions with a view to ending hostilities and that the military demarcation line should not in any way be interpreted as constituting a political or territorial boundary. The Conference expresses its conviction that the execution of the provisions set out in the present declaration and in the agreement on the cessation of hostilities creates the necessary basis for the achievement in the near future of a political settlement in Viet-Nam.</ref>, và sẽ có một cuộc [[tổng tuyển cử]] ở cả hai miền sau hai năm (1956) để thống nhất về mặt nước.<ref>{{Chú thích web | url = http://www.fordham.edu/halsall/mod/1954-geneva-indochina.html | tiêu đề = Modern History Sourcebook: The Final Declaration of The Geneva Conference: OnRestoring Peace in Indochina, ngày 21 tháng 7 năm 1954 | tác giả = | ngày = | ngày truy cập = | nơi xuất bản = | ngôn ngữ = | archive-date = 2014-08-14 | archive-url = https://web.archive.org/web/20140814162014/http://www.fordham.edu/halsall/mod/1954-geneva-indochina.html | url-status = dead }}</ref>
 
Về sau, báo chí chính thống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và [[Hiệp định Paris 1973]] tiếp tục khẳng định rằng hiệp định Genève 1954 không chia đôi đất nước Việt Nam. Trong bài chính luận "Sách Trắng của Mỹ" trên báo Nhân dân (số 3992) nhằm phản đối việc Mỹ đổ quân vào Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc lại: ''"Giới tuyến 17 là tạm thời, không phải là giới tuyến chính trị, hoặc giới tuyến lãnh thổ; Việt Nam sẽ thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử tự do khắp cả nước vào nǎm 1956."'' <ref>Sách Trắng của Mỹ, Hồ Chí Minh, Báo Nhân dân (số 3992)</ref>
Dòng 151:
{{chính|Chiến tranh Việt Nam}}
[[Tập tin:Nvamarch.jpg|nhỏ|phải|200px|Quân đội Nhân dân Việt Nam đang hành quân trên đường Trường Sơn qua Lào để vào miền Nam Việt Nam.]]
Sau khi Hiệp định Genève được ký kết, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố sẵn sàng đàm phán với "các nhà đương cục Miền Nam", tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước, khẳng định chủ quyền Việt Nam Dân chủ cộng hòa trên toàn quốc, Quốc hội và Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa là của cả nước, không công nhận cuộc trưng cầu dân ý 1955 mà họ gọi là "phi pháp" ở miền Nam Việt Nam. Sau 2 năm, dưới sự hậu thuẫn của Mỹ, chính phủ [[Việt Nam Cộng hòa]] từ chối tham gia cuộc [[tổng tuyển cử]] để thống nhất đất nước theo Bản tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève. Sau nhiều cố gắng thương lượng không thành và với việc chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành chính sách đàn áp chính trị và tôn giáo<ref>https://nhandan.com.vn/binh-luan-phe-phan/su-that-khong-the-choi-cai-334004</ref>, năm [[1959]], [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]] đã quyết định tiến hành hỗ trợ các lực lượng ở miền Nam tổ chức đấu tranh chính trị kết hợp vũ trang để thống nhất đất nước và sau đó thực hiện cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên toàn quốc<ref>Xem thêm bài [[Đường Trường Sơn]] để biết thêm về tuyến đường chiến lược viện trợ cho miền Nam.</ref>. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gọi cuộc chiến này là kháng chiến nhằm bảo vệ các thành quả Cách mạng Tháng Tám, đó là khôi phục và bảo vệ quyền tự quyết dân tộc và giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân, đế quốc.<ref>https://daibieunhandan.vn/dau-moc-quan-trong-cua-cuoc-khang-chien-chong-my-cuu-nuoc-whsrdww2lq-52462</ref> Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam là đại diện nhân dân Miền Nam để thực hiện cuộc đấu tranh này.<ref>https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Bo-may-hanh-chinh/Tuyen-bo-Dai-hoi-dai-bieu-quoc-dan-mien-Nam-Chinh-phu-cach-mang-lam-thoi-cong-hoa-Viet-Nam-58239.aspx</ref> Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa xem cuộc kháng chiến này là sự nghiệp của hai miền Nam - Bắc của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và sau đó là của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam nhằm đạt độc lập, và thống nhất đất nước.
 
Với sự viện trợ của [[Liên Xô]] và [[Trung Quốc]], miền Bắc dưới sự kiểm soát của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã hỗ trợ người và của cho [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]] để đối đầu với Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa suốt 16 năm ([[1959]]-[[1975]]), miền Bắc luôn là hậu phương lớn của chiến trường miền Nam.
 
Trong thời [[Chiến tranh Việt Nam]], lãnh thổ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chịu nhiều tác hại của cuộc chiến vì các chiến dịch ném bom của [[quân đội Hoa Kỳ|quân đội Mỹ]] với mục đích ngăn chặn sự chi viện của hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam Việt Nam. Theo ước tính, không quân Hoa Kỳ đã ném xuống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khoảng 3 triệu tấn bom các loại.
 
==== Thống nhất hai miền Nam Bắc Việt Nam ====
Dòng 171:
 
==== Hoạt động ====
Ngay sau khi thành lập, [[Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Cách mạng Lâm thời]] ban hành các sắc lệnh giải tán một số đảng phái<ref name="saclenh8">[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=7&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 8 NGÀY 5 THÁNG 9 NĂM 1945]</ref><ref name="saclenh30">[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=30&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 30 NGÀY 12 THÁNG 9 NĂM 1945]</ref>, với lý do các đảng này "tư thông với ngoại quốc", làm "phương hại đến nền độc lập Việt Nam và nền kinh tế Việt Nam" (như [[Việt Nam Quốc xã]], [[Đại Việt Quốc dân đảng]]...) nhằm kịp thời trừng trị "bọn phản cách mạng", "bảo vệ" chính quyền non trẻ đồng thời "giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác" cho nhân dân<ref name="BuiLam">{{Chú thích web |url=http://tapchikiemsat.org.vn/viewtopic/phap-luat-78/Nho-bac-Bui-Lam-630.html |ngày truy cập=2011-12-18 |tựa đề=Nhớ mãi về bác Bùi Lâm, Tạp chí Kiểm sát |archive-date = ngày 11 tháng 1 năm 2012 |archive-url=https://web.archive.org/web/20120111184416/http://tapchikiemsat.org.vn/viewtopic/phap-luat-78/Nho-bac-Bui-Lam-630.html }}</ref>. Cùng với đó là giải tán các nghiệp đoàn<ref>[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=40&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 36 NGÀY 22 THÁNG 9 NĂM 1945]</ref> để kiểm soát nền kinh tế<ref>Bộ Giáo dục và Đào tạo, Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), ''Lịch sử 12 nâng cao'', Nhà xuất bản Giáo dục, Thanh Hóa, 2008. Trang 169.</ref>, thống nhất các tổ chức thanh niên (vào [[Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh|Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam]]). Đồng thời Chính phủ cũng ban hành sắc lệnh thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương các cấp.
 
Trong cuộc họp đầu tiên của Chính phủ Cách mạng Lâm thời (3 tháng 9 năm 1945), toàn bộ các thành viên trong chính phủ đã thống nhất các phương pháp Chủ tịch Chính phủ [[Hồ Chí Minh]] để giải quyết các vấn đề cấp bách của nước mới, bao gồm<ref name="vonguyengiap1">Võ Nguyên Giáp, ''Những năm tháng không thể nào quên'', Nhà xuất bản Trẻ, 2009. Trang 33, 34, 35, 36.</ref>:
Dòng 198:
==== Thành lập ====
[[Tập tin:Chinh phu lam thoi.jpg|nhỏ|phải|300px|Nội các Chính phủ Liên hiệp Lâm thời]]
Tháng 9 năm 1945, 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc gồm 4 quân đoàn do tướng [[Lư Hán]] làm tổng chỉ huy, theo sự phân công của [[Khối Đồng Minh thời Chiến tranh thế giới thứ hai|phe Đồng Minh]] chia làm hai đường tiến vào miền Bắc giải giáp quân Nhật đã kéo vào đóng quân ở [[Hà Nội]] và hầu hết các thành phố, thị xã từ biên giới Việt-Trung đến vĩ tuyến 16. Quân của [[Tưởng Giới Thạch]] ngoài nhiệm vụ giải giáp quân Nhật còn nhằm thực hiện ý đồ tiêu diệt [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Cộng sản Đông Dương]], phá tan mặt trận [[Việt Minh]], giúp các lực lượng đối lập đánh đổ chính quyền do Việt Minh thành lập, thiết lập chính quyền thân Tưởng<ref name="dcls">Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, ''Đại cương lịch sử Việt Nam - Tập 3'', Nhà xuất bản Giáo dục, 2007. Trang 10.</ref>.
 
Các tổ chức [[Việt Nam Quốc dân Đảng|Việt Quốc]] ([[Vũ Hồng Khanh]], [[Nguyễn Tường Tam]] đứng đầu), [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội|Việt Cách]] (đứng đầu là [[Nguyễn Hải Thần]]) cũng nhanh chóng từ [[Trung Quốc]] đi cùng quân Tưởng trở về Việt Nam. Thành phần các đảng phái này trong nước không mạnh như Việt Minh<ref name="chienkhu">Chiến khu Trần Hưng Đạo, Chương 3 - Chiến khu Trần Hưng Đạo trong tổng khởi nghĩa tháng 8 và những tháng đầu bảo vệ chính quyền cách mạng (8/1945-10/1945),trang 106,114,115,118 - 123, Bộ tư lệnh quân khu 3, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 1993.</ref><ref>Việt Nam Quốc dân Đảng trong thời kỳ thoái trào và biến chất (1930-1954), Nguyễn Văn Khánh, Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 6/410(2010), Viện sử học Việt Nam.</ref>.
 
Theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, mục đích của Việt Quốc, Việt Cách để mở đường, tạo dựng cơ sở cho [[Quân đội Trung Hoa Dân Quốc]] vào Việt Nam<ref name="vonguyengiap1" />, gây xung đột vũ trang với Quân Giải phóng và cướp chính quyền các địa phương<ref name="dcls" /><ref>Võ Nguyên Giáp, ''Những năm tháng không thể nào quên'', Nhà xuất bản Trẻ, 2009. Trang 35.</ref>. Dựa vào quân đội Tưởng, Việt Quốc và Việt Cách đã chiếm giữ một số nơi ở [[Yên Bái]], [[Vĩnh Yên]], [[Móng Cái]], liên tục thực hiện các vụ quấy nhiễu, cướp phá, giết người, rải truyền đơn, ra báo ''Việt Nam'', ''Thiết Thực'', ''Đồng Tâm'' nhằm vu cáo nói xấu [[Việt Minh]], chống chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đòi gạt bỏ các bộ trưởng là đảng viên cộng sản ra khỏi chính phủ mới thành lập<ref name="dcls" />. Cũng theo Đại tướng [[Võ Nguyên Giáp]], do sống từ lâu ở nước ngoài, lại không có liên hệ gì với phong trào cách mạng trong nước, nên Việt Quốc, Việt Cách không nhận được sự ủng hộ của người dân. Tại nhiều nơi có quân Tưởng và Việt Quốc, Việt Cách đi qua, các cơ quan chính quyền, đoàn thể, lực lượng vũ trang đều dãn ra xung quanh tránh xô xát lớn. Nhân dân thực hiện "vườn không, nhà trống". Điều này đã khiến cho quân Tưởng gặp nhiều khó khăn trên đường đi, còn Việt Quốc, Việt Cách cũng thất bại trong việc khuếch trương thanh thế cũng như mục đích của mình<ref>Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi ký, ''Những năm tháng không thể nào quên'', Nhà xuất bản QĐND, trang 158, 159.</ref>. Còn theo sử gia [[Trần Trọng Kim]] thì Việt Quốc, Việt Cách tuy có thế lực nhờ quân đội Trung Hoa Dân Quốc hỗ trợ, nhưng không thống nhất và không có kỷ luật chặt chẽ<ref>[http://vanhoanghean.vn/thu-vien-lich-su-van-hoa/mot-con-gio-bui-hoi-ky-cua-le-than-tran-trong-kim Một Cơn Gió Bụi, Chương 6: Chính phủ Việt Nam và tình thế trong nước, Trần Trọng Kim] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20141019071358/http://vanhoanghean.vn/thu-vien-lich-su-van-hoa/mot-con-gio-bui-hoi-ky-cua-le-than-tran-trong-kim |date = ngày 19 tháng 10 năm 2014}}, Tạp chí Văn hóa Nghệ An.</ref>, tuyên truyền nhiều mà không làm được việc gì đáng kể<ref>[http://vanhoanghean.vn/thu-vien-lich-su-van-hoa/mot-con-gio-bui-hoi-ky-cua-le-than-tran-trong-kim Một Cơn Gió Bụi, Chương 9: Đi sang Tàu, Trần Trọng Kim] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20141019071358/http://vanhoanghean.vn/thu-vien-lich-su-van-hoa/mot-con-gio-bui-hoi-ky-cua-le-than-tran-trong-kim |date = ngày 19 tháng 10 năm 2014}}, Tạp chí Văn hóa Nghệ An.</ref>. Thiếu tá tình báo Mỹ thuộc [[OSS]], Archimedes L.A Patti nhận xét những người Quốc gia lưu vong chống cộng quyết liệt, có tham vọng nắm quyền lãnh đạo đất nước nhưng quá kém về tổ chức, thiếu sự liên kết chính trị, thiếu lãnh đạo và không có một chương trình hành động ra hồn mà chỉ hy vọng tạo ra một nước Việt Nam độc lập với sự giúp đỡ của Trung Quốc<ref>Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 537, 543.</ref>. Sau khi thảo luận với các lãnh đạo Việt Cách và Việt Nam Quốc dân Đảng, ông nhận thấy những người này tuyệt nhiên không có ý tưởng nào về việc đáp ứng nhu cầu của nhân dân, không một ai có khái niệm về công việc sẽ làm mà chỉ chăm chăm mục tiêu "chia sẻ quyền lực với Việt Minh". Ông ta nhận xét: ''"Họ (Việt Cách, Việt Nam Quốc dân Đảng) là những kẻ lạc hướng về chính trị, có lẽ vì sống quá lâu ở Trung Quốc"'' <ref>Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. Nhà xuất bản Thế giới. Trang 174.</ref>.
Dòng 210:
Trong hai ngày 18 và 19 tháng 9 năm 1945, Việt Minh họp bí mật với Việt Cách (ngày 18 tháng 9) và Việt Quốc (ngày 19 tháng 9). Trong hai cuộc họp này, [[Nguyễn Hải Thần]] đại diện [[Việt Cách]] và [[Nguyễn Tường Tam]] đại diện [[Việt Quốc]] đề nghị Hồ Chí Minh đồng ý hợp nhất Việt Minh với Việt Cách và Việt Quốc. Qua đó, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Việt Minh lãnh đạo sẽ nhận được sự ủng hộ về tài chính và chính trị của Trung Hoa Dân Quốc. Đối với lời đề nghị này, trong nội bộ Việt Minh có nhiều ý kiến khác nhau. [[Võ Nguyên Giáp]] không đồng ý vì cho rằng những đề nghị đó không có giá trị và không thật thà, chẳng khác gì thay thế chủ nghĩa thực dân Pháp bằng ách thống trị của Trung Quốc nhưng [[Hoàng Minh Giám]] lại nghĩ rằng việc hợp nhất Việt Minh với các đảng phái Quốc gia sẽ làm giảm bớt sự đối lập và tăng cường thế lực cho Việt Minh, làm người Trung Quốc yên lòng còn Pháp phải lo ngại, quan trọng nhất là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong con mắt của Đồng Minh, đặc biệt là Mỹ, là chính phủ thật sự dân chủ. Cuối cùng Việt Minh đã từ chối hợp nhất với Việt Cách và Đại Việt Quốc dân Đảng<ref>Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 544 - 545.</ref>.
 
Điều làm Hồ Chí Minh lo ngại là trong một số giới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu Việt Nam, người ta vẫn xem ông và Việt Minh là cộng sản vì thế ông phải làm mọi cách để thay đổi điều này<ref>Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 543.</ref>. [[Tháng mười một|Tháng 11]] năm [[1945]], ông quyết định cho Đảng Cộng sản Đông Dương tự giải tán. Về mặt công khai, đảng của ông không còn hiện diện mà chỉ có một bộ phận hoạt động dưới danh nghĩa [[Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương]]<ref>Theo bài ''"Tai bay vạ gió" trong ngoại giao? Những nỗi truân chuyên của Việt Nam trên con đường hội nhập Phong trào Quốc tế Cộng sản (1945–1950)'', Christopher Goscha của Đại học Québec tại Montréal, đăng tại tạp chí ''[http://www.ucpressjournals.com/journal.asp?jIssn=1559-372X Journal of Vietnamese Studies]'' {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20061117113414/http://www.ucpressjournals.com/journal.asp?jIssn=1559-372X |date = ngày 17 tháng 11 năm 2006}} thì khi gặp nhau ở Trung Quốc năm 1950, [[Lưu Thiếu Kỳ|Lưu Thiếu Kì]] đã nói với Hồ Chí Minh rằng Đảng Cộng sản Trung Quốc đã nhận xét hành động này của Việt Nam như sự "xa rời lý tưởng cộng sản".</ref>.
 
Ngày 19 tháng 11 năm 1945, tướng [[Tiêu Văn]] đứng ra tổ chức một cuộc hội nghị hòa giải có Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội và Việt Minh tham gia. Mặt trận Việt Minh đồng ý nhượng bộ với Việt Quốc, Việt Cách<ref name="chienkhu"/><ref>Why Vietnam, Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 591 - 592.</ref>. Lãnh đạo Việt Cách Nguyễn Hải Thần được bổ nhiệm vào ghế Phó Chủ tịch Chính phủ. Đồng thời hai ghế bộ trưởng Bộ Y tế và Bộ Vệ sinh, một ghế thứ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế được giao cho các thành viên của Việt Quốc, Việt Cách<ref>Võ Nguyên Giáp, ''Những năm tháng không thể nào quên'', Nhà xuất bản Trẻ, 2009. Trang 108.</ref><ref>Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư, ''Đại cương lịch sử Việt Nam - Tập 3'', Nhà xuất bản Giáo dục, 2007. Trang 17.</ref>. Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thay đổi. Bộ trưởng Quốc phòng trở thành nơi lo về tài chính mà không được xem xét danh sách nhân sự, quân số, súng đạn còn các Bộ trưởng khác của các đảng phái Quốc gia chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự bất cứ buổi họp nào của nội các<ref>Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. trang 177, Nhà xuất bản Thế giới, 2013.</ref>.
 
Ngày 1 tháng 1 năm 1946, [[Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Liên hiệp Lâm thời]] được thành lập thay thế [[Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Cách mạng Lâm thời]] với sự tham gia của một số đảng phái đối lập ([[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội|Việt Cách]], [[Việt Nam Quốc dân Đảng|Việt Quốc]]...) hoạt động ở Trung Quốc với sự bảo trợ của [[Trung Quốc Quốc Dân Đảng|Trung Hoa Quốc Dân Đảng]]<ref>Võ Nguyên Giáp, ''Những năm tháng không thể nào quên'', Nhà xuất bản Trẻ, 2009. Trang 33.</ref>.
 
==== Hoạt động ====
Dòng 222:
Sau khi kết quả bầu cử được công bố, sự thật hoàn toàn không như các đảng phái tuyên truyền. Nhiều ''đại biểu có uy tín của các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc đều trúng cử tại Quốc hội khóa I hầu hết chưa là đảng viên''<ref name="DDK"/>.
Sau cuộc bầu cử, theo thỏa thuận với [[Việt Minh]], phe đối lập bao gồm một số tổ chức như [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội|Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội]] và [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] được Trung Hoa Dân quốc ủng hộ, không tham gia Tổng tuyển cử nhưng vẫn được nắm 70 ghế Quốc hội cùng nhiều vị trí trong chính quyền trung ương do chính sách hòa hợp các đảng phái của Chính phủ. Trong hồi ký ''Những năm tháng không thể nào quên'', Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định các đảng phái này lo sợ thất bại trước sức ủng hộ lớn của cử tri với Mặt trận Việt Minh nên không tham gia bầu cử<ref>Võ Nguyên Giáp, ''Những năm tháng không thể nào quên'', Nhà xuất bản Trẻ, 2009. Trang 99.</ref>.
 
Tại Kỳ họp thứ nhất của Quốc hội, theo đề nghị của Đoàn chủ tịch ([[Ngô Tử Hạ]] điều khiển, với [[Nguyễn Đình Thi]] làm thư ký), các ghế Quốc hội phân chia tả hữu, theo đó Việt Quốc, Việt Cách (cánh hữu) ngồi bên tay phải, và các đại biểu Việt Minh, Marxist, Xã hội, Dân chủ ngồi bên tay trái, nhưng theo ý kiến của chủ tịch Hồ Chí Minh thì không nên phân chia như vậy, thể hiện một sự đoàn kết trong Quốc hội.
Dòng 229:
{{chính|Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa}}
==== Thành lập ====
Sau khi Quốc hội được bầu, ngày 2 tháng 3 năm 1946, [[Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến]] được thành lập để thay thế [[Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Liên hiệp Lâm thời]]. Ở các địa phương, các cấp chính quyền liên hiệp được thành lập trong năm 1946.
==== Hoạt động ====
Trong thời gian hoạt động, Chính phủ đã tiếp tục thực hiện các biện pháp, chính sách để giữ vững nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ non trẻ. Về đối nội đã kêu gọi các đảng phái đoàn kết phụng sự quốc gia, thực hiện các chính sách kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục...<ref>Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký, Những năm tháng không thể nào quên, trang 315.</ref> Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và [[Trần Quốc Hoàn]], sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] và [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội]] tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: ''"Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn"''. Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốc bắn chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị an. [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông [[Nguyễn Duy Thanh]], một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: ''"Không có Trung Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được với những người Cộng sản"'' <ref>Cecil B. Currey. Chiến thắng bằng mọi giá. Nhà xuất bản Thế giới. Trang 177 - 178.</ref>
Dòng 235:
Về đối ngoại đã thực hiện đàm phán với Chính phủ Pháp, ký với đại diện chính phủ Cộng hòa Pháp J. Sainteny bản [[Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt (1946)|Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt]] ngày 6 tháng 3 năm 1946 cho phép 15.000 quân Pháp ra Bắc thay thế cho 20 vạn quân Tưởng rút về nước. Sau khi bản Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt được ký ngày [[6 tháng 3]] năm [[1946]], các đảng phái không cộng sản và thân nước ngoài như [[Việt Nam Quốc dân Đảng|Việt Quốc]] và Việt Cách đã lên tiếng phản đối Chính phủ ký hiệp định này với Pháp.
 
Từ ngày 19 tháng 4 đến ngày 11 tháng 5 năm 1946 tại Đà Lạt, chính phủ tổ chức một hội nghị dự bị, gặp gỡ giữa 2 phái đoàn Việt và Pháp chuẩn bị cho [[Hội nghị Fontainebleau 1946|Hội nghị Fontainebleau]] chính thức vào tháng 7 năm 1946.
 
Ngày 31 tháng 5 năm 1946, [[Chủ tịch]] [[Hồ Chí Minh]] lên đường sang Pháp theo lời mời của chính phủ nước này. Cùng ngày, phái đoàn chính phủ do Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng khởi hành. Trước khi đi, [[Hồ Chí Minh]] bàn giao quyền lãnh đạo đất nước cho Quyền Chủ tịch Nước là cụ [[Huỳnh Thúc Kháng]] với lời dặn "Dĩ bất biến, ứng vạn biến". Trước khi lên đường sang Pháp, Hồ Chí Minh dự đoán thời gian ở Pháp "...có khi một tháng, có khi hơn" <ref>''Bác Hồ - hồi ký'', Nhà xuất bản Văn học, trang 112, phần kể của Nguyễn Lương Bằng.</ref> nhưng cuối cùng [[Chủ tịch]] [[Hồ Chí Minh]] ở Pháp 4 tháng trong lúc phái đoàn do [[Phạm Văn Đồng]] dẫn đầu tham dự [[Hội nghị Fontainebleau 1946|Hội nghị Fontainebleau]] (diễn ra từ 6 tháng 7 tới 10 tháng 9 năm 1946). Hội nghị Fontainebleau không đem lại kết quả cụ thể nào. Sau khi phái đoàn của Việt Nam về nước, tại Pháp, ngày 14 tháng 9 năm 1946, [[Chủ tịch]] [[Hồ Chí Minh]] ký với đại diện Pháp bản [[Tạm ước Việt - Pháp]].
 
Ngày 15 tháng 6 năm 1946, người lính cuối cùng của quân đội Trung Hoa Dân Quốc rời khỏi Việt Nam<ref name="Currey"/>. Các thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh Hội mất chỗ dựa hậu thuẫn chính là quân đội [[Tưởng Giới Thạch]] và do bất đồng về việc ký [[Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt 1946|Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt]] ngày 6 tháng 3 cũng như không muốn sáp nhập quân đội vào biên chế Vệ quốc đoàn dưới sự chỉ huy của Bộ Quốc phòng do Việt Minh kiểm soát do lo sợ bị khống chế rồi bị giải tán dần đã lần lượt rút khỏi chính phủ Liên hiệp.<ref name="NTB"/> Lãnh tụ đảng Việt Cách là [[Nguyễn Hải Thần]] và các thành viên Việt Quốc - Việt Cách khác trong chính phủ như [[Nguyễn Tường Tam]], [[Vũ Hồng Khanh]] và cánh thân Tưởng do Vũ Hồng Khanh lãnh đạo lưu vong sang Trung Quốc. Các đảng viên Đại Việt phần lớn vẫn ở lại Việt Nam chờ thời cơ<ref name="vonguyengiap2" />. Nguyễn Tường Tam với tư cách Bộ trưởng Bộ Ngoại giao dẫn đầu phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia [[Hội nghị Đà Lạt 1946|Hội nghị trù bị tại Đà Lạt]], nhưng do bất đồng đã không tham gia hầu hết các phiên họp<ref>Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tập Hồi Ký, Những năm tháng không thể nào quên, trang 274.</ref>, sau đó cũng không tham gia [[Hội nghị Fontainebleau 1946|Hội nghị Fontainebleau]], cuối cùng rời bỏ chính phủ<ref name="NTB">[http://lmvn.com/truyen/index.php?func=viewpost&id=c6j6GAnIk1u39gHBrZ4ou5OJb8b4i3nB&ssid=3300 Việt Nam, một thế kỷ qua, Chương 30, Nguyễn Tường Bách], Nhà xuất bản Thạch Ngữ, California, 1998.</ref> (tài liệu nhà nước nêu Nguyễn Tường Tam thiếu bản lĩnh chính trị, lập trường bấp bênh, biển thủ công quỹ rồi đào nhiệm sang nước ngoài<ref>[http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/bng_vietnam/nr050225105543/nr050225105648/nr050302090431/ns050302091503/view Bộ trưởng Nguyễn Tường Tam, Trang web Bộ Ngoại giao]</ref>). Việc các thành viên chủ chốt của Việt Quốc, Việt Cách như [[Nguyễn Hải Thần]], [[Nguyễn Tường Tam]], [[Vũ Hồng Khanh]] rời bỏ chính phủ, lưu vong sang Trung Quốc đã đánh dấu chấm hết cho thời kỳ hợp tác giữa Việt Minh và các đảng phái không cộng sản tại miền Bắc, trong công cuộc "kháng chiến kiến quốc" mà [[Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến]] là biểu tượng.
 
Sự có mặt của quân đội [[Tưởng Giới Thạch]] cho tới lúc đó đã đảm bảo sự tồn tại của Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Hai đảng này không có một chương trình gắn kết với nhau để tranh thủ dân chúng như Việt Minh. Những người lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội thì còn xa mới có được những phẩm chất có thể so sánh với Hồ Chí Minh, Võ Nguyễn Giáp và những người có trách nhiệm khác của [[Việt Minh]]. Khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam ngày 15 tháng 6 năm 1946, hiểu theo cách này hay cách khác, [[Võ Nguyên Giáp]] quyết định Việt Minh phải hoàn toàn một mình điều khiển bộ máy chính quyền. Võ Nguyên Giáp hối hả hành động ngay với mục tiêu rải khắp: Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội được Trung Hoa Quốc dân Đảng ủng hộ, Việt Nam Quốc dân Đảng (theo Cecil B. Currey tổ chức này mượn danh cách mạng của Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1930 do [[Nguyễn Thái Học]] sáng lập<ref name="Currey"/> còn theo David G. Marr thì Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra sức tuyên truyền Việt Nam Quốc dân Đảng phản bội lại sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Thái Học năm 1930 nhưng đến cuối năm 1945 nhiều người dân vẫn không tin vào điều đó{{sfnp|Marr|2013|page=415}}), nhóm quốc gia thân Nhật Đại Việt, những người Trotskyist, những người quốc gia chống Pháp, nhóm Công giáo mang tên "chiến sĩ Công giáo". Võ Nguyễn Giáp đã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái này. Ngày 19 tháng 6 năm 1946, [[Báo Cứu Quốc]] của Tổng bộ [[Việt Minh]] đăng xã luận kịch liệt chỉ trích "''bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3''". Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét các đảng phái đối lập bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các binh lính, sĩ quan Nhật Bản tình nguyện ở lại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp (ở Hòn Gai quân Pháp cung cấp cho Việt Minh những khẩu pháo để diệt một số vị trí do quân Đại Việt chiếm giữ) trong chiến dịch này<ref name="Currey">Chiến thắng bằng mọi giá, trang 196-197, Cecil B. Currey, Nhà xuất bản Thế giới, 2013.</ref>.
 
Một trong những sự kiện nổi tiếng nhất trong chiến dịch trấn áp các đảng phái đối lập là [[vụ án phố Ôn Như Hầu]]. Sau khi từ Trung Quốc về Việt Nam, Việt Nam Quốc dân Đảng ngoài việc tìm cách lật đổ Việt Minh để cùng với các đảng phái Việt Cách, Đại Việt... chiếm chính quyền<ref>Võ Nguyên Giáp, Những năm tháng không thể nào quên, Nhà xuất bản Trẻ, 2009. Trang 288-289.</ref>, Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng nhờ có vũ khí do Trung Hoa Dân Quốc chuyển giao còn tổ chức các đội vũ trang mang tên "Thần lôi đoàn", "Thiết huyết đoàn", "Hùm xám"... Các đội vũ trang này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám sát những người theo Việt Minh và cả những người trung lập như ông Ba Viên (Ba Viên bị Quốc dân Đảng nghi ngờ là gián điệp của Pháp, sau khi gặp Hồ Chí Minh, Ba Viên quay về Hà Giang, bắt giữ và hành quyết một số đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng{{sfnp|Marr|2013|page=415}}) rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà nội và một số đô thị ở Bắc Bộ<ref name="60nam" />. Không những thế đầu tháng 6 năm 1946, Việt Nam Quốc dân Đảng tổ chức cho Nghiêm Xuân Chi (đảng viên Việt Quốc) ám sát một số lãnh đạo của Việt Minh như [[Võ Nguyên Giáp]], [[Trường Chinh]] và ông [[Bồ Xuân Luật]], một người cũ của Việt Cách nay đứng về phe Việt Minh<ref name="Nguyễn Trọng Khuê 2005">Nguyễn Trọng Khuê (chủ biên). Những trang sử vẻ vang của Công an nhân dân Việt Nam (1945-2005). Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hà Nội. 2005. trang 14-16.</ref>. Trước những hoạt động gây mất trật tự an ninh tại Hà Nội và một số thành phố ở Bắc Bộ, Sở Công an Bắc Bộ đã lập chuyên án mà sau này được lấy tên công khai là [[Vụ án phố Ôn Như Hầu|Chuyên án số 7 phố Ôn Như Hầu]]<ref name="60nam">Phạm Văn Quyền (chủ biên). 60 năm Công an nhân dân Việt Nam. Nhà xuất bản Công an nhân dân. 2006. trang 104.</ref>. [[Trường Chinh]] (Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, khi đó rút vào hoạt động bí mật, chức danh công khai là [[Hội trưởng]] [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Hội nghiên cứu Chủ nghĩa Mác ở Đông Dương]]) được Nha Công an Trung ương báo cáo phát hiện được âm mưu của thực dân Pháp câu kết với Việt Nam Quốc dân Đảng đang chuẩn bị đảo chính Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã chỉ đạo phải tập trung trấn áp Việt Nam Quốc dân Đảng, nhưng phải có đủ chứng cứ.
 
Sáng sớm ngày [[12 tháng 7]] năm [[1946]], một tiểu đội công an do [[Lê Hữu Qua]] chỉ huy<ref name="lehuuqua">Vụ án phố Ôn Như Hầu, thiếu tướng Lê Hữu Qua, Báo Nhân dân, ngày 19/8/2005.</ref> bao vây khám xét trụ sở của [[Đại Việt Quốc dân Đảng|Đảng Đại Việt]] tại số 132 Duvigneau, do nghi ngờ Đại Việt cấu kết với Pháp âm mưu tiến hành [[đảo chính]] lật đổ Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đúng vào ngày Quốc khánh Pháp (14 tháng 7 năm 1946) khiến lính canh và các đảng viên Đại Việt không kịp phản ứng<ref name="phaply">[http://phaply.net.vn/ben-khung-cua-tu-phap/ho-so-vu-an/con-trai-ong-tien-thuoc-nam-pha-vu-an-on-nhu-hau.html Con trai "ông tiên thuốc nam" phá vụ án Ôn Như Hầu] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20141129015555/http://phaply.net.vn/ben-khung-cua-tu-phap/ho-so-vu-an/con-trai-ong-tien-thuoc-nam-pha-vu-an-on-nhu-hau.html |date = ngày 29 tháng 11 năm 2014}}, Thanh Sơn – Kiến Quốc, Pháp lý online, 3/3/2011.</ref>. Khi thực hiện cuộc bao vây khám xét này, lực lượng công an chưa có chứng cứ cụ thể và chưa có lệnh của cấp trên nhưng vẫn tiến hành để các thành viên Đại Việt không có thời gian rút vào bí mật và tẩu tán truyền đơn, hiệu triệu lật đổ chính quyền. Tại trụ sở của Đại Việt, lực lượng công an đã tìm thấy nhiều truyền đơn, hiệu triệu chưa kịp tẩu tán cùng nhiều súng ống, [[lựu đạn]]<ref name="lehuuqua" />. Công an cũng được cho là đã phát hiện một bản kế hoạch có chữ ký của [[Trương Tử Anh]], theo đó Đại Việt sẽ quăng lựu đạn vào lính Pháp gốc Phi trong ngày diễu binh của quân đội Pháp, tiếp đó quân đội Đại Việt hoặc quân đội Pháp sẽ bắt giữ những lãnh đạo [[Đảng Cộng sản Đông Dương]] và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cuối cùng Trương Tử Anh sẽ công bố thành lập chính phủ mới{{sfnp|Marr|2013|page=424-425}}. [[Lê Giản]], Giám đốc Nha Công an Bắc bộ, đưa tài liệu này cho Quyền Chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng. Ông này đọc rồi nói "''Tiêu diệt chúng! Quét sạch toàn bộ! Lũ phản bội! Đồ chó má!''". Tuy nhiên, tài liệu này là một bản dự thảo do Trương Tử Anh viết tay chỉ để sử dụng trong Đại Việt Quốc dân Đảng. Lê Giản không cung cấp được bằng chứng về sự thông đồng của Pháp với Đại Việt Quốc dân Đảng trong kế hoạch đảo chính ngày 14 tháng 7 năm 1946 ngoài việc Sainteny tiếp tục muốn tổ chức diễu binh vào ngày đó. Lê Giản tìm Võ Nguyên Giáp và được Giáp chỉ thị tấn công tất cả các văn phòng của Việt Quốc ở Hà Nội và các tỉnh.{{sfnp|Marr|2013|page=424-425}}
 
Sau đó, lúc 7h sáng ngày [[12 tháng 7]] năm [[1946]], [[Việt Nam Công an vụ]] thực hiện phá [[vụ án phố Ôn Như Hầu]]. Chỉ đạo trực tiếp lực lượng [[công an]] phá vụ án này là các ông [[Lê Giản]] (Giám đốc Nha Công an Bắc Bộ), [[Nguyễn Tuấn Thức]] (Giám đốc Công an Hà Nội) và [[Nguyễn Tạo]] (Trưởng nha Điệp báo Công an Trung ương)<ref name="phaply"/>. Lực lượng công an xung phong đã thực hiện khám xét các trụ sở [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] (7 căn nhà) tại [[Hà Nội]], bắt tại chỗ nhiều thành viên của Việt Nam Quốc dân Đảng cùng nhiều tang vật như truyền đơn, [[vũ khí]], dụng cụ tra tấn, đồng thời phát hiện nhiều [[xác chết]] tại đó,... Hơn 100 người bị bắt và một số người biến mất không dấu vết. Trong số các thành viên của Quốc dân Đảng bị bắt, có một đại biểu [[Quốc hội Việt Nam khóa I]] là [[Phan Kích Nam]]. Theo điều tra của [[Nha công an]], [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] đang chuẩn bị những hành động khiêu khích rất nghiêm trọng. Dự định các thành viên của [[Việt Nam Quốc dân Đảng]] sẽ phục sẵn dọc đường [[Quân đội Pháp|quân Pháp]] diễu hành qua nhân ngày Quốc khánh Pháp, bắn [[súng]], ném [[lựu đạn]] để tạo ra những chuyện rắc rối giữa Pháp và Chính phủ, gây sự phá hoại [[hòa bình]] rồi tung truyền đơn hô hào lật đổ chính quyền và sau đó đứng ra bắt tay với Pháp.<ref name="vonguyengiap2">Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký, Những năm tháng không thể nào quên, trang 290.</ref>
 
Ngày [[16 tháng 7]], Quyền Chủ tịch nước [[Huỳnh Thúc Kháng]] đã có tuyên bố trấn an dư luận: ''"Những đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng chân chính, được bảo đảm sự tự do hoạt động trong vòng pháp luật... Những kẻ bắt cóc, tống tiền, ám sát thì phải đem ra pháp luật nghiêm trị. Đây không phải là vấn đề đảng phái. Việc khám xét vừa rồi là việc phải làm để bảo vệ trị an..."''.<ref>Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng tập Hồi ký, Những năm tháng không thể nào quên, trang 292.</ref>
 
Theo quy định của [[Luật pháp|pháp luật]] thì [[Phó Chủ tịch nước (Việt Nam)|Phó Chủ tịch nước]] và [[Bộ trưởng Việt Nam|Bộ trưởng]] do [[Quốc hội]] bầu, và chỉ phế truất bởi Quốc hội theo thủ tục quy định của [[Luật pháp|pháp luật]]<ref>[http://vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=290&type=html HIẾN PHÁP NƯỚC Việt Nam DÂN CHỦ CỘNG HOÀ (QUỐC HỘI NƯỚC Việt Nam DÂN CHỦ CỘNG HOÀ THÔNG QUA NGÀY 9-11-1946), CHƯƠNG IV, CHÍNH PHỦ]</ref> Trong phiên điều trần trước Quốc hội tại Kỳ họp thứ hai liên quan [[Tạm ước Việt - Pháp|Tạm ước]] và một số thành viên rời Chính phủ, Hồ Chí Minh có nói:
 
''Tạm ước này có ảnh hưởng tới các hiệp ước ký sau không? Trong xã hội loài người, có cái gì mà không ảnh hướng tới cái khác. Tuy vậy, những sự điều đình sau đây không thể vì bản tạm ước này mà bị ràng bó. Bản Tạm ước này tùy theo sự thi hành thế nào, sẽ tạo điều kiện đẩy cho những cuộc điều đình sau mau chóng đạt kết quả.Về ông Phó Chủ tịch Nguyễn Hải Thần, ông Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam, ông Phó Chủ tịch Quân ủy hội Vũ Hồng Khanh, các ông ấy không có mặt ở đây. Lúc Nhà nước đương gặp bước khó khăn, quốc dân tin ở người nào trao người ấy làm công việc lớn mà các ông ấy lại bỏ đi thì các ông ấy phải hỏi lương tâm thế nào? Những người đã bỏ việc đi kia, họ không muốn gánh vác việc nước nhà hoặc họ cũng không đủ năng lực gánh vác, nay chúng ta không có họ ở đây chúng ta cũng cứ gánh vác được như thường''<ref>{{Chú thích web |url=http://khampha.vn/toi/ho-chu-tich-tra-loi-chat-van-qua-loi-ke-tuong-giap-c8a3130.html |ngày truy cập=2012-09-09 |tựa đề=Hồ Chủ tịch trả lời chất vấn qua lời kể Tướng Giáp |archive-date=2014-02-01 |archive-url=https://web.archive.org/web/20140201194321/http://khampha.vn/toi/ho-chu-tich-tra-loi-chat-van-qua-loi-ke-tuong-giap-c8a3130.html |url-status=dead }}</ref>.
 
Dù vậy, một số thành viên [[Việt Nam Quốc dân Đảng|Việt Quốc]], [[Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội|Việt Cách]] như [[Chu Bá Phượng]], [[Bồ Xuân Luật]] vẫn tiếp tục tham gia Chính phủ, kể cả khi lên [[Việt Bắc]]. [[Trương Đình Tri]] vẫn tiếp tục tham gia chính phủ sau [[Vụ án phố Ôn Như Hầu]]. Tại kỳ họp thứ hai Quốc hội, vẫn có 37 đại biểu Việt Quốc, Việt Cách tham gia (tổng số 291 thành viên tham dự trong tổng số 444 thành viên đã mở rộng so với đầu năm). [[Cung Đình Quỳ]] tiếp tục tham gia Ban Thường trực Quốc hội.
 
=== Chính phủ Liên hiệp Quốc dân ===
Dòng 262:
Ngày 3 tháng 11 năm 1946 [[Chính phủ Liên hiệp Quốc dân]] nhiều thành phần được thành lập thay cho Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến nhằm đáp ứng tình hình mới.
==== Hoạt động ====
Trong thời gian kháng chiến, bộ máy hành chính các cấp có nhiều biến đổi. Tổ chức đơn vị hành chính Khu và Liên khu. Thành lập các Ủy ban Kháng chiến các cấp. Cấp Trung ương, thành lập Bộ Tổng chỉ huy Quân đội Quốc gia ([[1947]]), sau đổi là [[Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam|Bộ Tổng tư lệnh]] ([[1948]]) rồi [[Bộ Quốc phòng Việt Nam|Bộ Quốc phòng Tổng tư lệnh]]. Các [[Tư pháp|cơ quan tư pháp]] cơ bản tổ chức theo cấp xét xử.
 
=== Chính phủ từ 1955 đến 1959 ===
Dòng 282:
Quốc hội Khóa I (Quốc hội lập hiến), với tên gọi lúc đó là Nghị viện Nhân dân, được bầu vào ngày [[6 tháng 1]] năm [[1946]], với tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu là 89% và có 333 người trúng cử.
 
Ngày [[20 tháng 9]] năm [[1945]], Ủy ban Dự thảo Hiến pháp được thành lập theo Sắc lệnh số 34-SL gồm có 7 thành viên: [[Hồ Chí Minh]], [[Bảo Đại|Vĩnh Thụy]] (vua Bảo Đại), [[Đặng Thai Mai]], [[Vũ Trọng Khánh]], [[Lê Văn Hiến]], [[Nguyễn Lương Bằng]], [[Trường Chinh|Đặng Xuân Khu]] (Trường Chinh).
 
Ngày [[9 tháng 11]] năm [[1946]], tại Kỳ họp thứ hai [[Quốc hội Việt Nam khóa I|Quốc hội khóa I]] đã thông qua [[Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1946|Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]. Dự kiến [[trưng cầu dân ý]] toàn quốc thông qua Hiến pháp, bầu cử Nghị viện Nhân dân theo quy định của Hiến pháp mới thay cho [[Quốc hội Việt Nam khóa I|Quốc hội lập hiến]], nhưng chiến tranh nên không thực hiện được. Khi đó Quốc hội chia theo nhóm: [[Chủ nghĩa Marx|Mác xít]], [[Hệ thống xã hội chủ nghĩa|Xã hội chủ nghĩa]], [[Dân chủ]], [[Việt Minh]], [[Đồng minh Hội (định hướng)|Đồng minh Hội]] và [[Việt Nam Quốc dân Đảng]]<ref>Stein Tennesson:Vietnam 1946: How the War Began, University of California Press, tr.91.</ref>, không kể các đại biểu trung lập.
 
Tiếp đó, Dự án luật Lao động được thông qua và ban hành ngày [[8 tháng 11]] năm [[1946]]. Đây là dự luật đầu tiên được thông qua.
Dòng 314:
 
==== Thành lập Bộ Tư pháp ====
[[Bộ Tư pháp (Việt Nam)|Bộ Tư pháp Việt Nam]] được thành lập ngày [[28 tháng 8]] năm [[1945]] cùng với [[Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ Cách mạng Lâm thời]] do luật sư [[Vũ Trọng Khánh]] làm Bộ trưởng, sau tháng 3 năm 1946 thì chuyển giao cho luật sư [[Vũ Đình Hòe]]. Đến năm [[1960]], Bộ Tư pháp giải thể.
 
==== Thành lập Tòa án Quân sự ====
Ngày [[13 tháng 9]] năm [[1945]], Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành sắc lệnh thành lập các [[Tòa án Quân sự Trung ương (Việt Nam)|Tòa án Quân sự]]<ref>[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=36&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 33C NGÀY 13 THÁNG 9 NĂM 1945]</ref><ref>[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=41&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 37 NGÀY 26 THÁNG 9 NĂM 1945]</ref><ref>[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=44&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 40 NGÀY 29 THÁNG 9 NĂM 1945]</ref><ref>[http://www.vietlaw.gov.vn/LAWNET/docView.do?docid=84&type=html&searchType=fulltextsearch&searchText= SẮC LỆNH CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI SỐ 77-C NGÀY 28 THÁNG 12 NĂM 1945]</ref> để ''xử tất cả các người nào vi phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa''. Theo quy định về thành lập [[Tòa án Quân sự]] theo Sắc lệnh 21/SL ngày [[14 tháng 2]] năm [[1946]] và Sắc lệnh 170/SL của Chủ tịch Chính phủ ngày [[14 tháng 4]] năm [[1948]]: "Tòa án quân sự xử tất cả các người nào phạm một việc gì, sau hay trước ngày 19 tháng 8 dương lịch năm 1945, có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trừ những việc nào mà phạm nhân là [[Người lính|binh sĩ]], dù là tòng phạm hay chính phạm, thì thuộc về nhà binh tự xử lấy. Tòa án quân sự có thể tuyên án: tha bổng, tịch thu một phần hay tất cả tài sản, phạt tù từ 1 đến 10 năm, phạt khổ sai từ 5 đến 10 năm, xử tử. Những quyết nghị của tòa án quân sự sẽ đem thi hành ngay, không có quyền chống án, trừ trường hợp xử tử, tội phạm có quyền đề đơn lên Chủ tịch Chính phủ xin ân giảm. Bản án hoãn thi hành để chờ quyết nghị của Chủ tịch Chính phủ".
 
==== Thành lập Tòa án Nhân dân Đặc biệt ====
Dòng 329:
 
==== Xây dựng hệ thống pháp luật ====
Sau [[chiến tranh Đông Dương|kháng chiến chống Pháp]], Quốc hội khóa I đến khóa V đã thông qua nhiều bộ luật đóng góp vào hệ thống [[văn bản quy phạm pháp luật]] của nền Tư pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngoài ra, [[Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] cũng ban hành các [[sắc lệnh]] quy định những vấn đề mà Quốc hội chưa ban hành luật.
 
Ngày [[14 tháng 12]] năm [[1956]], Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh số 282/SL để quy định về chế độ báo chí. Sắc lệnh này quy định tất cả các báo chí đều được hưởng [[Tự do ngôn luận|quyền tự do ngôn luận]], không phải [[kiểm duyệt]] trước khi in (Điều 4). Muốn [[xuất bản]] một [[Báo|tờ báo]] phải xin phép trước, phải làm đầy đủ thủ tục khai báo. Sau khi được cơ quan phụ trách về báo chí của Chính phủ cấp giấy phép, [[Báo viết|tờ báo]] mới được hoạt động (Điều 8)<ref>[http://moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=1058 Sắc lệnh số 282/SL ngày 14 tháng 12 năm 1956], CHỦ TỊCH NƯỚC Việt Nam DÂN CHỦ CỘNG HOÀ.</ref>.
 
Ngày [[20 tháng 5]] năm [[1957]], [[Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] ra Sắc lệnh số 102/SL-L004 ban hành [[Luật quy định quyền Lập hội]]. Luật này quy định lập hội phải xin phép và thể lệ lập hội sẽ do [[Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa|Chính phủ]] quy định (điều 3). Đồng thời, những hội đã thành lập trước ngày ban hành Luật quy định Quyền Lập hội và đã hoạt động trong vùng tạm bị chiếm trong thời kỳ kháng chiến, nay muốn tiếp tục hoạt động, đều phải xin phép lại (điều 4)<ref>[http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=1034 SẮC LỆNH SỐ 102/SL-L004 NGÀY 20-5-1957 QUY ĐỊNH QUYỀN LẬP HỘI], Quốc hội Việt Nam.</ref>.
Dòng 338:
Năm 1958, [[Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Việt Nam)|Viện Công tố Trung ương]] (sau là [[Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao (Việt Nam)|Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao]]) được thành lập với Viện trưởng đầu tiên là ông [[Bùi Lâm]].
==== Thành lập Tòa án Nhân dân Tối cao ====
[[Tháng năm|Tháng 5]] năm [[1959]], [[Tòa án nhân dân tối cao (Việt Nam)|Tòa án Nhân dân Tối cao]] được thành lập với [[Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (Việt Nam)|Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao]] là luật sư [[Phạm Văn Bạch]].
 
== Phân cấp hành chính ==
{{Bài chi tiết|Phân cấp hành chính Việt Nam}}
 
Sau [[Cách mạng Tháng Tám|Cách mạng]], đơn vị hành chính các cấp gồm: [[kỳ]], [[tỉnh]], [[huyện]], [[xã]]. Thành phố [[Hà Nội]] trực thuộc trung ương. Thành phố [[Hải Phòng]], [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] – [[Chợ Lớn]] trực thuộc kỳ, thành phố [[Nam Định]], [[Vinh]], [[Bến Thủy]], [[Huế]] và [[Đà Nẵng]] đều tạm coi là [[Thị xã (Việt Nam)|Thị xã]].
 
Thời kỳ kháng chiến, tổ chức thêm các đơn vị hành chính cấp Khu và Liên khu. Thủ đô kháng chiến đặt ở [[Việt Bắc]].
Dòng 356:
|||Điều 78, Hiến pháp Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 1959.}}
 
Trong [[Thành phố trực thuộc Trung ương (Việt Nam)|thành phố trực thuộc trung ương]], thời kỳ 1954–1958, có các cấp hành chính quận (ở cả nội thành và ngoại thành), dưới quận có [[Đường phố|khu phố]] (ở nội thành) và xã (ở ngoại thành, ngoài ra có phố là cấp không thông dụng, như phố Gia Lâm ở Hà Nội). Năm 1958, nội thành bỏ quận, thay bằng khu phố (gọi tắt là khu), dưới khu phố là khối dân phố, ngoại thành có quận (từ năm 1961 đổi là huyện) và xã. Năm [[1974]], đổi tên gọi khối dân phố thành cấp tiểu khu.
 
Từ năm 1955, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập Khu tự trị Thái Mèo (sau đổi là [[Khu tự trị Tây Bắc]]) gồm ba tỉnh [[Lai Châu]], [[Sơn La]], [[Nghĩa Lộ]], và năm 1956 thiết lập [[Khu tự trị Việt Bắc]] gồm 6 tỉnh [[Cao Bằng]], [[Lạng Sơn]], [[Thái Nguyên]], [[Bắc Kạn|Bắc Cạn]], [[Hà Giang]], [[Tuyên Quang]]. Khu tự trị là đơn vị hành chính đệm giữa Trung ương và cấp tỉnh. Năm 1975 cấp này bị bãi bỏ.
 
==Các tổ chức chính trị==
Dòng 367:
#[[Hội Liên hiệp Quốc dân Việt Nam]] (Liên Việt): là tổ chức liên hiệp các tổ chức chính trị và xã hội với mục đích đoàn kết tất cả các lực lượng và đồng bào yêu nước Việt Nam không phân biệt đảng phái, giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, dân tộc để làm cho nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, phú cường; Liên Việt được lập ra để kêu gọi các tổ chức chống Pháp mà không thuộc Việt Minh hoặc Đảng Cộng sản Đông Dương; do đó Liên Việt được xem là tổ chức lớn thứ 2 sau Việt Minh; Liên Việt hợp nhất với Việt Minh từ tháng 3 năm 1949 thành Mặt trận Liên Việt
#[[Mặt trận Liên Việt]]: một liên minh chính trị tại Việt Nam từ năm 1951 đến 1955, được thành lập trên cơ sở hợp nhất từ 2 tổ chức Việt Minh và Liên Việt; do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo
#[[Đảng Cộng sản Đông Dương]] (sau là [[Đảng Lao động Việt Nam]]): tuyên bố giải tán năm 1945 bởi áp lực từ Pháp, Mỹ, và Trung Hoa Dân quốc; hoạt động chính thức trở lại từ [[Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II|Đại hội II]] với tên mới là Đảng Lao động Việt Nam; Đảng Cộng sản Đông Dương là lực lượng nồng cốt của Việt Minh; Theo [[Cơ quan Tình báo Trung ương (Hoa Kỳ)|CIA]], Đảng Cộng sản Đông Dương vẫn là nòng cốt của Việt Minh với năm 1931: 1 500 thành viên, 1946: 50 000 thành viên, 1950: 400 000 thành viên<ref name="USdoc" />.
#[[Đảng Dân chủ Việt Nam]]: tổ chức của giới trung lưu, phần lớn hoạt động ở Bắc Bộ, ủng hộ Việt Minh và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa<ref name="USdoc" />.
#[[Đảng Xã hội Việt Nam]]: theo khuynh hướng [[dân chủ xã hội]], ủng hộ Việt Minh và chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa<ref name="USdoc" />.
Dòng 402:
Giữa năm [[1955]] và năm [[1956]], một cuộc [[cải cách ruộng đất]] được tiến hành với mục đích lấy [[Ruộng|ruộng đất]] của địa chủ, cường hào chia cho nông dân. Cuộc cải cách đã phạm phải nhiều sai lầm như đấu tố nhầm, tràn lan, xử tội không thông qua [[tòa án]] hoặc chỉ qua "tòa án nhân dân". Các nhà lãnh đạo chính quyền, trong đó có Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã chính thức phải xin lỗi trước dân chúng về các sai lầm này đồng thời cách chức và xử phạt nhiều [[cán bộ]].
 
Trong 3.563 [[xã]] thuộc 22 tỉnh và những vùng ngoại thành ở miền Bắc đã thực hiện cải cách ruộng đất, các đội cải cách ruộng đất đã chỉ ra 47.890 địa chủ, chiếm 1,87% tổng số hộ và 2,25% tổng số nhân khẩu ở nông thôn. Trong số địa chủ đó, có 6.220 hộ là cường hào gian ác, chiếm 13% tổng số hộ địa chủ. Nghị quyết của Hội nghị Trung ương [[Đảng Lao động Việt Nam]] lần thứ 14 về tổng kết cải cách ruộng đất đã nêu rõ: "''Những tên địa chủ có nhiều tội ác với nông dân và là phản động đầu sỏ cùng một số tổ chức của chúng đã bị quần chúng tố cáo và bị trừng trị theo pháp luật''". Số địa chủ bị tuyên án tử hình trong chương trình Cải cách ruộng đất không được thống kê chính xác và gây tranh cãi. Các nhà nghiên cứu phương Tây đưa ra các số liệu rất khác nhau và không thống nhất, theo [[Gareth Porter]]: từ 800 đến 2.500 người bị tử hình<ref>Gavin W. Jones, "Population Trends and Policies in Vietnam: Population and Development Review", Vol. 8, No. 4 (Dec., 1982), pp. 783-810.</ref>; theo Edwin E. Moise (sau một công cuộc nghiên cứu sâu rộng hơn): vào khoảng 5.000; theo giáo sư sử học [[James P. Harrison]]: vào khoảng 1.500 người bị tử hình cộng với 1.500 bị giam giữ<ref>''The Endless War: Vietnam Struggle For Independence'', Columbia University Press, 1989, trang 149.</ref>. Do tiến hành vội vã, nhiều địa chủ bị kết án oan sai, nên từ năm [[1956]], các chiến dịch sửa sai được tiến hành, các địa chủ bị kết án oan được trả tự do, minh oan, trả lại danh dự và được tạo điều kiện sinh sống<ref>[http://thuvienphapluat.vn/archive/Van-ban-khac/Ke-hoach-sua-chua-sai-lam-cai-cach-ruong-dat-vb53946t33.aspx KẾ HOẠCH TIẾN HÀNH SỬA CHỮA SAI LẦM VỀ CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT NHIỆM VỤ CHUNG], KEHOACH-TTg, Phạm Văn Đồng, Hà Nội, ngày 20 tháng 12 năm 1956.</ref>. Qua cải cách ruộng đất ở miền Bắc, trên 810.000 [[hecta]] ruộng đất của đế quốc và địa chủ, ruộng đất tôn giáo, ruộng đất công và nửa công nửa tư đã bị tịch thu, trưng thu, trưng mua để chia cho 2.220.000 hộ nông dân lao động và dân nghèo ở [[Đồng quê|nông thôn]], bao gồm trên 9.000.000 nhân khẩu. Như vậy là 72,8% số hộ ở nông thôn miền Bắc đã được chia ruộng đất. Tính đến [[Tháng tư|tháng 4]] năm [[1953]], số ruộng đất trực tiếp tịch thu của địa chủ chia cho nông dân bằng 67,67% tổng số ruộng đất mà địa chủ chiếm hữu nǎm 1945<ref>[http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=9&leader_topic=545&id=BT2090533858 Nghị quyết của Hội nghị Trung ương lần thứ 14 về tổng kết cải cách ruộng đất] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20140201151222/http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=9&leader_topic=545&id=BT2090533858 |date = ngày 1 tháng 2 năm 2014}}, Văn kiện hội nghị, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.</ref>.
 
Trong một thời gian ngắn (đến 1955), các công trình thủy lợi bị Pháp phá hủy đều dần được khôi phục, diện tích tưới lên lại 202.374 ha. Năm 1958, sản xuất nông nghiệp nói chung và thủy lợi nói riêng đã vượt mức trước chiến tranh. Nghị quyết 63 của Bộ Chính trị đưa ra mục tiêu ''“thắng được hạn hán, úng, bão, xâm nhập mặn và lụt lớn”''. Công trình đại thủy nông [[Bắc Hưng Hải]] được chọn làm đột phá với nhiệm vụ tưới tiêu cho 156.000 ha. Ngày 1/10/1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khởi công công trình. Trong thời gian thi công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuống động viên và kiểm tra 4 lần: ''“Bây giờ chịu khó phấn đấu trong mấy tháng. Sau này sẽ hưởng hạnh phúc lâu dài hàng trăm năm”''<ref>https://nongnghiep.vn/hao-hung-thuy-loi-viet-nam-ky-tich-trong-gian-kho-post134446.html</ref>.
Dòng 411:
{{chính|Cải tạo kinh tế tại miền Bắc Việt Nam}}
 
Năm [[1958]], Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố: ''Thời kỳ khôi phục kinh tế đã kết thúc và mở đầu thời kỳ phát triển kinh tế một cách có kế hoạch''. [[Tháng mười một|Tháng 11]] năm [[1958]], [[Đảng Cộng sản Việt Nam|Đảng Lao động Việt Nam]] quyết định đề ra kế hoạch [[phát triển kinh tế]], [[văn hóa]] trong 3 năm ([[1958]]–[[1960]]) và tiến hành [[cải tạo xã hội chủ nghĩa]] (bao gồm hợp tác hóa nông nghiệp và cải tạo tư bản tư doanh)<ref>Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư,..., ''Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3'', Nhà xuất bản Giáo dục, 2007. Trang 147, 148.</ref><ref>[http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=9&leader_topic=545&id=BT2090533685 Báo cáo về nhiệm vụ kế hoạch ba năm (1958-1960) phát triển và cải tạo kinh tế quốc dân] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20140201151134/http://123.30.190.43:8080/tiengviet/tulieuvankien/vankiendang/details.asp?topic=191&subtopic=9&leader_topic=545&id=BT2090533685 |date = ngày 1 tháng 2 năm 2014}}, Văn kiện Đảng, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam.</ref>, kế hoạch phát triển và [[Cải tạo kinh tế tại Việt Nam|cải tạo kinh tế]], [[Tiến hóa văn minh|phát triển văn hóa]] của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được [[Quốc hội Việt Nam|Quốc hội]] thông qua ngày [[14 tháng 12]] năm [[1958]]<ref>[http://www.moj.gov.vn/vbpq/Lists/Vn%20bn%20php%20lut/View_Detail.aspx?ItemID=950 NGHỊ QUYẾT VỀ TÌNH HÌNH, NHIỆM VỤ VÀ KẾ HOẠCH 3 NĂM (1958 - 1960) PHÁT TRIỂN VÀ CẢI TẠO KINH TẾ, PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ], QUỐC HỘI NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ HỌP KHOÁ THỨ IX, CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP.</ref>. Đến cuối năm [[1960]], ở [[Miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc]] có 84,8% số hộ [[nông dân]] đã gia nhập [[hợp tác xã]], chiếm 76% tổng diện tích [[canh tác]], 520 hợp tác xã [[ngư nghiệp]] chiếm 77,2% tổng số hộ đánh cá, có 269 hợp tác xã nghề muối chiếm 85% tổng số hộ làm [[muối]]. Ở [[Đô thị|thành thị]], 100% số cơ sở công nghiệp tư bản tư doanh thuộc diện cải tạo đã được tổ chức thành xí nghiệp công tư hợp doanh, xí nghiệp hợp tác, 1.553 [[doanh nhân]] thành [[người lao động]]. Có 90% tổng số thợ thủ công trong diện cải tạo đã tham gia các hợp tác xã thủ công nghiệp, trong đó hơn 70.000 thợ thủ công chuyển sang sản xuất nông nghiệp. Trong lĩnh vực thương nghiệp, đến 60% tổng số người buôn bán nhỏ, làm [[dịch vụ]], [[kinh doanh]] ngành ăn uống thuộc diện cải tạo đã tham gia hợp tác xã, tổ mua bán, làm [[đại lý]] cho thương nghiệp quốc doanh và trên 10.000 người đã chuyển sang sản xuất<ref>Giai đoạn 1955-1975: Xây dựng CNXH và Đấu tranh thống nhất đất nước, [http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=797&articleId=10001575 Phần 2: Hoàn thành Cải tạo xã hội chủ nghĩa, bước đầu phát triển kinh tế và văn hóa - đưa miền Bắc vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20150923222108/http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/noidungchinhsachthanhtuu?categoryId=797&articleId=10001575 |date=2015-09-23 }}, Cổng Thông tin điện tử Chính phủ.</ref>.
 
=== Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961–1965) ===
Bước vào thực hiện ''Kế hoạch nhà nước 5 năm'' lần thứ nhất, [[Miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc]] chuyển sang giai đoạn lấy xây dựng chủ nghĩa xã hội làm trọng tâm. Nhiệm vụ cơ bản của ''Kế hoạch 5 năm'' là ra sức phát triển [[công nghiệp]] và [[nông nghiệp]], tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và tăng cường thành phần kinh tế quốc doanh, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động, củng cố quốc phòng, tăng cường trật tự và an ninh xã hội.
 
Ngành [[công nghiệp]] được ưu tiên đầu tư [[xây dựng]]. Với sự giúp đỡ của [[Liên Xô]], [[Trung Quốc]] và các nước [[Hệ thống xã hội chủ nghĩa|xã hội chủ nghĩa]], từ năm [[1961]] đến năm [[1964]], vốn đầu tư xây dựng cơ bản dành cho [[công nghiệp]] là 48%, trong đó [[công nghiệp nặng]] chiếm gần 80%. Giá trị sản lượng ngành [[công nghiệp nặng]] năm [[1965]] tăng ba lần so với năm [[1960]].
 
Trong những năm 1961–1965, 100 cơ sở sản xuất mới được xây dựng hoặc mở rộng như các [[nhà máy]]: cơ khí Hà Nội, cơ khí Trần Hưng Đạo, xe đạp Thống Nhất, đóng tàu Bạch Đằng, điện Uông Bí, khu gang thép Thái Nguyên,... Các khu công nghiệp Việt Trì, Thượng Đình ([[Hà Nội]]), các nhà máy đường Vạn Điểm, Sông Lam, sứ Hải Dương, pin Văn Điển, dệt 8/3, dệt kim Đồng Xuân,... đã sản xuất nhiều mặt hàng phục vụ dân sinh và quốc phòng. Công nghiệp quốc doanh chiếm tỉ trọng 93% trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn miền Bắc, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. [[Công nghiệp nhẹ]] cùng với tiểu thủ công nghiệp đã giải quyết được 80% [[Hàng dân dụng|hàng tiêu dùng]] thiết yếu cho [[nhân dân]].
 
Trong nông nghiệp, sau khi đưa đại bộ phận [[nông dân]] vào các [[hợp tác xã]], từ năm [[1961]], các địa phương thực hiện chủ trương xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc cao. Nông dân áp dụng [[Khoa học kỹ thuật|khoa học – kỹ thuật]] vào [[sản xuất]]. Hệ thống thủy nông phát triển, nhiều công trình mới được xây dựng, tiêu biểu như công trình Bắc–Hưng–Hải. Nhiều hợp tác xã đạt và vượt năng suất 5 tấn thóc/ha cây trồng.
Dòng 426:
[[Hệ thống giao thông Việt Nam|Hệ thống giao thông]] đường bộ, [[đường sắt]], đường liên tỉnh, liên huyện, đường sông, đường hàng không được củng cố. Việc đi lại trong nước và giao thông quốc tế thuận lợi hơn trước.
 
Sự phát triển của nền kinh tế miền Bắc đã tạo điều kiện để [[Miền Bắc (Việt Nam)|miền Bắc]] tăng cường chi viện cho tiền tuyến [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam]]. Trong 5 năm (1961–1965), một khối lượng lớn [[vũ khí]], [[đạn dược]], [[Dược phẩm|thuốc men]] được chuyển vào chiến trường. Nhiều [[cán bộ]], [[Người lính|chiến sĩ]] trong lĩnh vực [[quân sự]], [[chính trị]], [[văn hóa]], [[giáo dục]], [[y tế]] được huấn luyện và đưa vào Nam tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu và xây dựng vùng giải phóng.
 
Mặc dù vẫn còn những khó khăn trong nền [[kinh tế]] như sản xuất hàng hóa phục vụ đời sống nhân dân còn thiếu, phải nhập khẩu từ các nước xã hội chủ nghĩa; các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp cao còn chưa nhiều, song Kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961–1965) đã làm thay đổi to lớn bộ mặt xã hội miền Bắc.
 
''Kế hoạch Nhà nước 5 năm'' (1961–1965) đang thực hiện có kết quả thì ngày [[7 tháng 2]] năm [[1965]], [[Hoa Kỳ|Mỹ]] chính thức gây ra cuộc [[chiến tranh]] phá hoại bằng [[không quân]] và [[hải quân]] đối với miền Bắc Việt Nam. Miền Bắc phải chuyển hướng xây dựng và phát triển kinh tế cho phù hợp với điều kiện chiến tranh.
 
=== Giai đoạn 1966–1976 ===
Dòng 456:
 
== Ngoại giao ==
Ngay từ khi mới thành lập chính quyền, Chủ tịch Chính phủ [[Hồ Chí Minh]] đã đặt ra yêu cầu ''"Phải mở cho được một cửa ngõ ra thế giới"''. Ban đầu, ông hướng tới nước [[Hoa Kỳ|Mỹ]] do mối quan hệ đồng minh chống Nhật. Tháng 1 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tám lần gửi thư đến Tổng thống [[Harry S. Truman]] và Ngoại trưởng [[James F. Byrnes]], nhưng không nhận được hồi âm.<ref>[https://www.qdnd.vn/ky-niem-110-nam-ngay-bac-ho-ra-di-tim-duong-cuu-nuoc/chuyen-ve-nguoi/chu-tich-ho-chi-minh-nguoi-chu-dong-va-nhiet-thanh-thiet-lap-quan-he-viet-my-661015 Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chủ động và nhiệt thành thiết lập quan hệ Việt - Mỹ]</ref> Tháng 7, chính phủ cử [[Nguyễn Đức Quỳ]] làm Phái viên tại [[Thái Lan]], đây cũng là cơ quan đại diện ngoại giao đầu tiên của chính quyền Việt Nam tại nước ngoài.<ref>[https://cand.com.vn/Phong-su-tu-lieu/Phai-vien-quan---co-quan-ngoai-giao-dau-tien-cua-Viet-Nam-o-nuoc-ngoai-i98685/ Phái viên quán - cơ quan ngoại giao đầu tiên của Việt Nam ở nước ngoài]</ref> Trong chuyến đi Pháp năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp gỡ [[David Ben-Gurion]], lãnh đạo phong trào phục quốc Do Thái. Lãnh đạo Việt Nam ngỏ ý sẵn sàng thiết lập đại diện ngoại giao khi chính phủ Do Thái lưu vong được thành lập, đồng thời có thể cho những người Do Thái đến Tây Nguyên tị nạn.<ref>[https://dantri.com.vn/the-gioi/dai-su-israel-lanh-dao-lap-quoc-israel-tung-gap-bac-ho-1400003701.htm Đại sứ Israel: Lãnh đạo lập quốc Israel từng gặp Bác Hồ]</ref> Năm 1947, Việt Nam đặt cơ quan liên lạc đầu tiên tại [[Yangon]] ([[Miến Điện]]).<ref>[https://baochinhphu.vn/viet-nam-myanmar-doi-tac-hop-tac-toan-dien-cung-huong-toi-tuong-lai-102243300.htm Việt Nam-Myanmar: Đối tác Hợp tác Toàn diện, cùng hướng tới tương lai]</ref> Từ tháng 1 cùng năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu duy trì điện đàm với các nhà lãnh đạo [[Ấn Độ]] khi nước này giành được quyền tự trị từ người Anh.<ref>[https://hochiminh.vn/ho-chi-minh-va-the-gioi/chu-tich-ho-chi-minh-voi-an-do-va-su-gan-ket-tinh-huu-nghi-viet-nam-an-do-3225 Chủ tịch Hồ Chí Minh với Ấn Độ và sự gắn kết tình hữu nghị Việt Nam - Ấn Độ]</ref>
 
Tuy vậy, trong 4 năm đầu, quan hệ ngoại giao chính thức duy nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là với [[Đệ Tứ Cộng hòa Pháp|Pháp]], khi Pháp công nhận là một nước tự do thuộc [[Liên hiệp Pháp]] tại [[Hiệp định sơ bộ Pháp – Việt (1946)|Hiệp định sơ bộ]] năm [[1946]]. Nhưng hiệp định này không còn giá trị khi Pháp thực hiện [[Thảm sát ngã ba phố Hàng Bún - ngõ Yên Ninh|thảm sát ở phố Hàng Bún]] và [[Thảm sát Hải Phòng]]. Cho đến khi chiến tranh nổ ra, các nước khác vẫn coi Việt Nam là một lãnh thổ thuộc địa của Pháp, mặc dù về mặt thực tế, Việt Nam đã là một quốc gia thống nhất, độc lập và có chủ quyền với sự lãnh đạo của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhất là từ sau Tổng tuyển cử năm 1946.
 
Năm 1950, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt liên lạc với [[Hệ thống xã hội chủ nghĩa]] và bắt đầu được nhiều nước công nhận, khởi đầu bởi [[Trung Quốc]] (18/1/1950) và [[Liên Xô]] (30/1/1950), tiếp theo là [[Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên|CHDCND Triều Tiên]] (31/1/1950), [[Cộng hòa Dân chủ Đức|Đông Đức]] (2/2/1950), [[Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc|Tiệp Khắc]] (2/2/1950), [[Cộng hòa Nhân dân România|România]] (3/2/1950), [[Cộng hòa Nhân dân Ba Lan|Ba Lan]] (4/2/1950), [[Cộng hòa Nhân dân Hungary|Hungary]] (4/2/1950), [[Cộng hòa Nhân dân Bulgaria|Bulgaria]] (8/2/1950), [[Cộng hòa Nhân dân Albania|Albania]] (13/3/1950). Năm 1954, [[Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ|Mông Cổ]] mới đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
 
Cùng năm khi tiếp quản Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh công nhận cơ quan ngoại giao của Ấn Độ tại [[Hà Nội]]. Ngày [[17 tháng 10]] năm 1954, [[Thủ tướng Ấn Độ]] [[Jawaharlal Nehru]] sang thăm Việt Nam.<ref>Viện Sử học, ''Việt Nam những sự kiện lịch sử (1945-1975)'', Nhà xuất bản Giáo dục, 2006. Trang 145.</ref> Tháng 11, [[Thủ tướng Myanmar|Thủ tướng Miến Điện]] [[U Nu]] sang thăm Việt Nam. Bang giao với Ấn Độ cùng với [[Indonesia]] và [[Miến Điện]] vẫn giữ ở bậc lãnh sự.<ref name="Area">Foreign Areas Studies Division. ''US Army Area Handbook for Vietnam''. Washington, DC: Special Operations Research Office, 1962. tr 304-10.</ref>
Dòng 466:
Ở Trung Đông và [[Bắc Phi]] thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lập bang giao với [[Maroc]] và [[Algérie]]. [[Cuba]] là quốc gia duy nhất ở [[Tây bán cầu]] có quan hệ ngoại giao chính thức với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa<ref name="Area"/>.
 
Các nước Tây phương thì mãi đến năm [[1968]] mới lập phòng liên lạc và đại diện bán chính thức là [[Thụy Sĩ]]. Tuy nhiên đây chỉ là cấp bán chính thức, không có đại sứ. Năm [[1969]], [[Thụy Điển]] là quốc gia Tây Âu đầu tiên thiết lập ngoại giao toàn phần với miền Bắc kể cả trao đổi [[đại sứ]]. Theo sau đó là [[Sénégal]] (1969), [[Sri Lanka|Ceylon]] (1970), Thụy Sĩ (1971), [[Ấn Độ]] (1972), [[Chile]] và [[Pakistan]]<ref>[http://www.mofa.gov.vn/vi/cn_vakv/ Thông tin cơ bản về các nước, khu vực và quan hệ với Việt Nam], Bộ Ngoại giao Việt Nam.</ref>. Tính đến hết [[Tháng mười hai|tháng 12]] năm [[1972]], có 49 quốc gia bang giao với nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa<ref name="State">Bühler, Konrad G. ''State succession and membership in international organizations''. The Hague: Kluwer Law International, 2001. tr. 68-92.</ref>. [[Pháp]] thiết lập [[Ngoại giao|quan hệ ngoại giao]] với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày [[12 tháng 4]] năm [[1973]]<ref>[https://www.mofa.gov.vn/vi/cn_vakv/ Thông tin cơ bản về các nước, khu vực và quan hệ với Việt Nam] {{Webarchive|url=https://web.archive.org/web/20201117083606/http://www.mofa.gov.vn/vi/cn_vakv/ |date = ngày 17 tháng 11 năm 2020}}, Bộ Ngoại giao Việt Nam.</ref>.
 
Năm [[1975]], Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cùng [[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]] đứng 2 đơn gia nhập [[Liên Hợp Quốc]] nhưng bị Mỹ phủ quyết cả hai<ref>Odd Arne Westad, Sophie Quinn-Judge. ''The Third Indochina War: conflict between China, Vietnam and Cambodia, 1972-79''. Abingdon, UK: Routledge, 2006. tr. 69.</ref>. Tuy nhiên cũng năm này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được gia nhập 2 [[tổ chức quốc tế]] là [[Tổ chức Khí tượng Thế giới|WMO]] (World Meteorological Organization, Tổ chức Khí tượng Thế giới) ngày [[7 tháng 8]] năm 1975 và [[Tổ chức Y tế Thế giới|WHO]] (World Health Organization, Tổ chức Y tế Thế giới) ngày [[22 tháng 10]] năm [[1975]]. Đây là hai [[tổ chức quốc tế]] đầu tiên (không kể những tổ chức riêng của [[hệ thống xã hội chủ nghĩa|khối Xã hội chủ nghĩa]]) quốc gia này tham gia<ref name="State"/>.
 
== Quân đội ==
{{chính|Quân đội nhân dân Việt Nam}}
Quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban đầu gồm nhiều lực lượng độc lập nhau, ở cả trong Nam lẫn ngoài Bắc. Sau nhiều lần sáp nhập, tổ chức lại, các lực lượng quân sự do Việt Minh và các nhóm chính trị khác chỉ huy thống nhất trong một hệ thống quân sự duy nhất là [[Vệ binh quốc gia|Vệ quốc đoàn]], sau Vệ quốc đoàn đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam.
 
Ở [[Miền Nam (Việt Nam)|miền Nam]], Vệ quốc đoàn có nhiều đơn vị của các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên tuy chấp hành những chỉ thị quân sự của cấp trên nhưng lại từ chối tiếp nhận các [[chính ủy]] do cấp trên cử xuống. Sau những xung đột quân sự giữa các đơn vị do giáo phái chỉ huy với những đơn vị do Việt Minh chỉ huy, và nhất là sau khi giáo chủ [[Huỳnh Phú Sổ]] của [[Hòa Hảo]] mất tích, phần lớn lực lượng quân sự của các giáo phái [[Cao Đài]], [[Hòa Hảo]], [[Bình Xuyên]] ly khai khỏi Vệ quốc đoàn hợp tác với chính phủ [[Cộng hòa tự trị Nam Kỳ|Nam Kỳ tự trị thuộc Pháp]] và sau này với [[Quốc gia Việt Nam]].<ref>Nguyễn Long Thành Nam, Phật giáo Hòa Hảo trong dòng lịch sử dân tộc, Phần V: Sau khi đức Huỳnh giáo chủ ra đi, Chương 11: Giai đoạn quân sự hóa 1947-1955, Mục 5: Hiệp định liên quân Pháp-Hòa Hảo ra đời, Tập san Đuốc Từ Bi, 1991</ref>
Dòng 502:
{{start box}}
|-
| width="30%" align="center" rowspan="3"| Tiền nhiệm:<br />'''[[Đế quốc Việt Nam]]''' <br />'''[[Liên bang Đông Dương|Đông Dương thuộc Pháp]]'''
| width="40%" align="center" | '''Việt Nam Dân chủ Cộng hòa'''<br />1945–1954 <br />'''''Việt Nam Dân chủ Cộng hòa'''''<br />(Bắc vĩ tuyến 17 )<br />1954–1976 <br />'''''[[Cộng hòa Miền Nam Việt Nam]]'''''<br />(Nam vĩ tuyến 17)<br />1969–1976
| width="30%" align="center" rowspan="3"| Kế nhiệm:<br />'''[[Việt Nam|Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa <br>Việt Nam]]'''