Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Tần Ai công”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 47:
}}
'''Tần Ai công''' ([[chữ Hán]]: ''秦哀公'', trị vì 536 TCN-501 TCN), còn gọi là '''Tần Tất công''' (''秦毕公''), '''Tần Bi công''' (''秦㻫公''), '''Tần Bách công''' (''秦栢公''), là vị quân chủ thứ 19 của [[nước Tần]], một [[chư hầu]] của [[nhà Chu]] trong [[Lịch sử Trung Quốc]].
 
==Thần thế==
Ông là con trai của [[Tần Cảnh công]], vua thứ 18 của nước Tần. Năm 537 TCN, sau khiTần Cảnh công chết, ôngAi công nối ngôi quốc quân.
==Thông hôn với Sở==
Năm 523 TCN, Ai công hứa gả con gái là Bá Doanh cho Thế tử Kiến của [[Nước Sở]], đồng minh của Tần. Cha của Kiến, [[Sở Bình vương]], sai [[Phí Vô Cực]] hộ tống công chúa về Sở. Tuy nhiên, Phí Vô Cực thấy nàng công chúa xinh đẹp và nói vua Sở Bình vương tráo cô dâu. Thế tử chạy trốn ra nước ngoài và sau đó bị giết. Nàng Bá Doanh sau đó mang sinh con trai, năm 515 TCN lên ngôi vua, chính là [[Sở Chiêu Vương]]
Dòng 54:
Trong 506 TCN, [[Ngô Hạp Lư]] đánh Sở, chiếm được [[Dĩnh Đô]]. Sở Chiêu vương chạy ra [[nước Tùy]]. [[Thân Bao Tư]] đến Tần để cầu xin trợ giúp, rền rỉ trong 7 ngày bên ngoài cung điện mà không ăn uống. Ai công ban đầu từ chối, nhưng cuối cùng động lòng nên đồng ý giúp đỡ, phái quân đánh Hạp Lư. Năm 505 TCN liên quân Tần-Sở đánh bại Ngô, Hạp Lư buộc phải rút lui, Sở Chiêu vương trở lại Sở.
==Qua đời==
Năm 501 TCN, Ai công chếtqua sauđời. 36Ông năm cầmngôi quyền36 năm. Con trai của ông đã chết được trao danh hiệu Di công (夷公). Cháu nội ông là [[Tần Huệ công]] nối ngôi.
==Xem thêm==
* [[Tần Cảnh công]]