Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Bùi Giáng”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Parkjunwung (thảo luận | đóng góp)
TuHan-Bot (thảo luận | đóng góp)
n Robot: Sửa đổi hướng
Dòng 3:
| image = Buigiang-chandung.jpg
| birth_date = [[17 tháng 12]] năm [[1926]]
| birth_place = [[duy Xuyên|huyện Duy Xuyên]], tỉnh [[Quảng Nam]], [[Việt Nam]]
| death_date = {{death date and age|1998|10|7|1926|12|17}}
| death_place = [[Thành phố Hồ Chí Minh]], [[Việt Nam]]
Dòng 15:
'''Bùi Giáng''' sinh ngày [[17 tháng 12]] năm 1926 tại [[làng]] Thanh Châu thuộc xã Vĩnh Trinh, huyện [[Duy Xuyên]], tỉnh [[Quảng Nam]].
 
Cha ông là Bùi Thuyên, thuộc đời thứ 16 của dòng họ [[Bùi]] ở Quảng Nam. Do người vợ cả qua đời sớm nên ông lấy người vợ kế là bà Huỳnh Thị Kiền. Bùi Giáng là con đầu của Bùi Thuyên với Huỳnh Thị Kiền, nhưng là con thứ 5 nếu tính tất cả các anh em. Khi vào [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]], ông được gọi theo cách gọi miền Nam là '''Sáu Giáng'''.
 
Năm [[1933]], ông bắt đầu đi học tại trường làng Thanh Châu.
Dòng 23:
Năm [[1939]], ông ra [[Huế]] học tư tại Trường trung học [[Thuận Hóa]]. Trong số thầy dạy ông có [[Cao Xuân Huy]], [[Hoài Thanh]], [[Đào Duy Anh]].
[[Tháng ba|Tháng 3]] năm [[1945]], [[Nhật Bản|Nhật]] đảo chính [[Đế quốc thực dân Pháp|Pháp]], nhưng sau đó ông cũng kịp đậu bằng Thành chung.
 
Năm [[1949]], ông tham gia kháng chiến chống Pháp, làm bộ đội Công binh.
Dòng 29:
Năm [[1950]], ông thi đỗ [[tú tài]] đặc biệt do Liên khu V tổ chức, được cử tới [[Hà Tĩnh]] để tiếp tục học. Từ [[Quảng Nam]] phải đi bộ theo đường núi hơn một tháng rưỡi, nhưng khi đến nơi, thì ông quyết định bỏ học để quay ngược trở về quê, để đi chăn bò trên vùng rừng núi Trung Phước.
 
Năm [[1952]], ông trở ra Huế thi tú tài 2 ban Văn chương. Thi đỗ, ông vào [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] ghi danh học Đại học Văn khoa. Tuy nhiên, theo T. Khuê thì ''sau khi nhìn danh sách các giáo sư giảng dạy lại, ông quyết định chấm dứt việc học và bắt đầu viết khảo luận, sáng tác, dịch thuật và đi dạy học tại các trường tư thục'' <ref>T. Khuê, ''Từ điển văn học'' (bộ mới), tr. 162.</ref>.
 
Năm [[1965]], nhà ông bị cháy làm mất nhiều bản thảo của ông.
Dòng 35:
Năm [[1969]], ông "bắt đầu điên rực rỡ" (''chữ của Bùi Giáng''). Sau đó, ông "lang thang du hành Lục tỉnh" (''chữ của Bui Giáng''), trong đó có [[Long Xuyên]], [[Châu Đốc]]...
 
Năm [[1971]], ông trở lại sống ở [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]]. Thi sĩ Bùi Giáng mất lúc 2 [[giờ]] chiều ngày 7 [[tháng mười|tháng 10]] năm [[1998]], sau một cơn tai biến mạch máu tại [[bệnh viện Chợ Rẫy]] ([[Thành phố Hồ Chí Minh]], tức [[Thành phố Hồ Chí Minh|Sài Gòn]] cũ) sau những năm tháng sống "điên rồ lừng lẫy chết đi sống lại vẻ vang" (''chữ của Bùi Giáng'').
 
==Tác phẩm==
Dòng 61:
*Nhận xét về [[Bà Huyện Thanh Quan]]
*Nhận xét về [[Lục Vân Tiên]]
*Nhận xét về [[Chinh phụ ngâm|Chinh Phụ Ngâm]] và [[Quan Âm Thị Kính (truyện thơ)|Quan Âm Thị Kính]].
*Nhận xét về [[truyện Kiều]] và truyện [[Phan Trần]].
Tất cả đều được xuất bản năm 1957.
Dòng 123:
 
Các sách xuất bản năm 1973 và 1974, có:
*[[Hoàng Tử Bé|Hoàng tử Bé]] (1973)
*Mùa xuân hương sắc (1974)...
 
Dòng 133:
:''Bùi Giáng viết rất nhiều, nhưng những gì còn lại chính là thơ. Thơ ông, ngay từ thuở đầu đã rong chơi, lãng mạn, tinh nghịch, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, luôn là những lời vấn đáp lẩn thẩn về ý nghĩa cuộc đời, về lẽ sinh tồn, về những chuyện phù du, dâu bể, ẩn khuất khía cạnh dục tình khép mở của [[Hồ Xuân Hương]]...Từ [[Nguyễn Du]], ông tạo nên một môtip bạc mệnh hiện đại, có màu sắc siêu thực qua tính cách tạo hình, có chất hoang mang của con người bất khả tri về mình, về người khác trong cuộc sinh tồn hiện hữu...
:''Bùi Giáng đã tái dựng [[thơ#Lục bát|lục bát]] trong bối cảnh mới của thời đại hiện sinh. Nguồn thơ của ông phát tiết trong khoảng thời gian ngắn, chỉ hai năm 1962-1963 đã có tới 6 tập thơ…Chuyện hạ bút thành thơ của ông được xác định như là một hiện tượng độc đáo…Tuy nhiên bi kịch của Bùi Giáng là ông lập lại chính mình, ngay cả trong thơ, cho nên những hình ảnh đẹp, những tư tưởng tân kỳ, nhiều khi được dùng lại nhiều lần trở thành sáo và vô nghĩa...
 
:''Nhưng dù sao chăng nữa, ông cũng đã tạo được một mẫu ngông thời đại, sáng tạo một kiểu say sưa, chán đời của thế kỷ 20, khác với [[Nguyễn Khuyến]] trong [[thế kỷ 19]] hoặc [[Tản Đà]] ở đầu [[thế kỷ 20]]<ref>Lược theo T. Khuê, ''Từ điển văn học'' (bộ mới), tr. 163.</ref>.