Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Quý Do”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 4:
Cha của Quý Do là Khả hãn [[Oa Khoát Đài]], [[Khả hãn]] thứ 2 của [[Đế quốc Mông Cổ]]. Mẹ của Quý Do là [[Khả đôn]] [[Töregene]] (phiên âm Hán: 昭慈皇, ''[[Nãi Mã Chân]]''), người bộ tộc [[Naiman]].
 
Từ nhỏ, Quý Do theo ông và cha trong các chiến dịch phạt Kim. Năm 1233, Quý Do lập chiến công tiêu diệt quốc gia [[Đông Chân]] (sử Trung Quốc chép là "Đông Hạ") của [[Bô Tiền Vạn Nô]] (Puxian Wannu) chỉ trong một thời gian ngắn<ref>Pál Nyíri, ''Chinese in Eastern Europe and Russia'', p.4</ref>. Từ năm 1236 - 1241, Quý Do tham gia vào cuộc xâm được [[nga|nước Nga]] và Tây chinh [[châu Âu]] cùng với những hoàng tử Mông Cổ khác, gồm cả sựngười thamanh gia củahọc [[Bạt Đô]] và người anh em cùng cha khác mẹ [[Khadan]] (phiên âm Hán: 合丹, ''Cáp Đan''). Tuy nhiên, trong nhữn gchiến dịch này, giữa Quý Do và Bat Đô đã nảy sinh những bất hòa không thể hàn gắn, dẫn đến việc [[Đế quốc Mông Cổ]] không còn có thể mở rộng về phía Tây.
 
Vợ của Quý Do, [[Oghul Qaimish]] (phiên âm Hán: 欽淑皇, ''[[Hải Mê Thất]]''), thuộc một bộ tộc Mông Cổ [[Merkit]] từng nổi dậy chống lại [[Thành Cát Tư Hãn]] vào khoảng những năm 1216-1219, được gả cho Quý Do như một chiến lợi phẩm theo truyền thống Mông Cổ. Sau cái chết của [[Đà Lôi]], Oa Khoát Đài từng đề nghị vợ của Đà Lôi là [[Sorghaghtani]] (phiên âm Hán: 唆魯禾帖尼, ''Toa Lỗ Hòa Thiếp Ni'') hãy cưới Quý Do nhưng Sorghaghtani đã từ chối.<ref>John Man, ''Kublai Khan'', p.19.</ref>
 
Tháng 11 năm 1241, Oa Khoát Đài chết, để lại di mệnh lập cháu mình là [[Shiremun]] (phiên âm Hán: 失烈门, ''[[Thất Liệt Môn]]''). Tuy nhiên, vợ của Oa Khoát Đài là [[Khả đôn]] [[Töregene]] kịch liệt phản đối, đề nghị lập con mình là Quý Do kế vị. Dù không đạt được mục đích, với sự hậu thuẫn của [[Sát Hợp Đài]], Töregene tuyên bố nắm quyền nhiếp chính. Trong thời kỳ 6 năm Töregene nhiếp chính xưng chế (1242–1246), pháp kỉ hỗn loạn, các quý tộc Mông Cổ đánh giết lẫn nhau. Bạt Đô bỏ không tham gia đại hội Kurultai, còn [[Thiết Mộc Ca]] ([[Temüge]]) - em trai [[Thành Cát Tư Hãn]] - hợp quân để tranh ngôi vị Khả hãn. Trước tình hình đó, vợ góa của Đà Lôi là Sorghaghtani dẫn các con tham gia đại hội Kurultai, cùng với các quý tộc Mông Cổ, tôn Quý Do lên ngôi Khả hãn vào tháng 8 năm 1246.
 
Lễ đăng quang của Quý Do được tổ chức ngày [[24 tháng 8]] năm 1246 gần [[Karakorum]], với sự tham gia của nhiều sứ thần ngoại quốc như các tu sĩ [[dòng Phanxicô]], đại diện [[Giáo hoàng Innocent IV]], [[Giovanni da Pian del Carpine]]; Đại công tước Moskva [[Yaroslav II Vladimir]]...<ref>Jean-Paul Roux, ''L'Asie Centrale'', p.312</ref>. Tuy nhiên, là một tướng lĩnh có khả năng, nhưng lại yếu kém về chính trị, mặc dù lên ngôi ở tuổi trưởng thành, nhưng mọi việc triều chính, Quý Do vẫn phó mặc cho mẹ mình là Töregene điều hành cho đến khi bà qua đời vào cuối năm đó. Dưới sự điều hành cũng ông ta, tình hình chính trị xã hội của [[Đế quốc Mông Cổ]] vẫn không khá hơn thời mẹ ông ta làm nhiếp chính.
 
Quý Do hưởng thọ 42 tuổi