Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Đã hủy sửa đổi của 24.197.152.167 (Thảo luận) quay về phiên bản của Sholokhov |
Không có tóm lược sửa đổi |
||
Dòng 28:
}}
'''Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi''' (1909-1988) là một [[giám mục]] [[Công giáo]] người Việt Nam
==Thân thế==
Dòng 35:
Năm 1920, ông được linh mục chính xứ Tôn Ðạo là Clément Pléneau Kim ([[MEP]]) cho nhập trường Ba Làng (nay thuộc huyện [[Tĩnh Gia]], [[Thanh Hóa]]). Năm 1921, ông được cho theo học tại Tiểu chủng viện Phúc Nhạc (Yên Khánh, [[Ninh Bình]]). Năm 1927, ông mãn Tiểu chủng viện và được Giám mục Alexandre Marcou Thành chọn đi tu học tại Trường Ðại học Truyền giáo Rôma.
Ông thụ phong [[Linh mục]] ngày [[23 tháng 12]] năm [[1933]]. Sau đó, ông tiếp tục theo học tại Ðại học Apollinaire và tốt nghiệp các văn bằng [[Tiến sĩ]] [[Triết học]], [[Cử nhân (định hướng)|Cử nhân]] [[Thần học]] và Cử nhân [[Giáo luật]]. Năm 1935, ông theo học khoa Luật tại [[Ðại học Paris]], [[Pháp]].▼
▲Ông thụ phong [[Linh mục]] ngày [[23 tháng 12]] năm [[1933]]. Sau đó, ông tiếp tục theo học tại Ðại học Apollinaire và tốt nghiệp các văn bằng [[Tiến sĩ]] [[Triết học]], [[Cử nhân (định hướng)|Cử nhân]] [[Thần học]] và Cử nhân [[Giáo luật]]. Năm 1935,ông theo học khoa Luật tại [[Ðại học Paris]], [[Pháp]].
==Hoạt động tôn giáo==
Năm 1936, ông quay trở về [[Việt Nam]] và nhận chức giáo sư [[Ðại chủng viện Phát Diệm]]. Năm 1944, ông được cử làm Phó giám đốc của Ðại chủng viện. Năm 1945, ông trở thành cố vấn của tân Giám mục [[Phát Diệm]] [[Lê Hữu Từ]] trong các vấn đề luật pháp và chính trị. Năm 1946, Giám mục [[Lê Hữu Từ]] bổ nhiệm ông làm Chánh án Tòa án Hôn phối Ðịa phận đồng thời cử ông vào Hội đồng Ðịa phận
Năm 1947, ông được thăng làm Giám đốc [[Ðại chủng viện Phát Diệm]]. Ngày 3 tháng 2 năm 1950, ông được [[Giáo hoàng Piô XII]] phong chức Giám mục hiệu tòa Sozopolitana ở Haemimonto và bổ nhiệm làm Giám quản Tông tòa [[Giáo phận Bùi Chu]]. Lễ thụ phong đã diễn ra vào ngày 4 tháng 8 năm 1950. ▼
===Giám mục Bùi Chu và Quy Nhơn===▼
Cũng như Giám mục Lê Hữu Từ, ông kịch liệt chống đối chủ nghĩa vô thần của những người Cộng sản. Dưới tác động từ thông điệp của Giáo hoàng Piô XI, với nội dung chống lại chế độ vô thần Cộng sản, ông đã có sự tham gia rất lớn trong việc hình thành những đội vũ trang Tự vệ Công giáo, xây dựng các giáo khu Phát Diệm trở thành những chính quyền tự trị với chính quyền [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]]. Riêng khu vực Bùi Chu do đích thân ông điều khiển.<ref>Trần Tam Tỉnh. ''Thập Giá và Lưỡi Gươm''. Chương II: Binh Thánh giá, nạn nhân của đạo quân Thánh giá. Mục 5: Cuộc thánh chiến</ref> Theo linh mục Trần Tam Tỉnh, các lực lượng tự vệ này ''"vượt xa tư cách gọi là chỉ để tự vệ khi bị cộng sản tấn công, bởi vì nó được tung ra các hoạt động chủ yếu là hành quân càn quét, có khi bao trùm cả vùng, có lúc chỉ ở địa phương nhỏ."''.▼
==Xây dựng khu tự trị Bùi Chu - Phát Diệm==
▲
▲Ngày 3 tháng 2 năm 1950, ông được [[Giáo hoàng Piô XII]] phong chức Giám mục hiệu tòa Sozopolitana ở Haemimonto và bổ nhiệm làm Giám quản Tông tòa [[Giáo phận Bùi Chu]]. Lễ thụ phong đã diễn ra vào ngày 4 tháng 8 năm 1950.
▲Bấy giờ, người Pháp đã kiểm soát được hầu hết Đông Dương. Mặc dù vậy, giáo khu Bùi Chu - Phát Diệm, vẫn được giữ quyền tự trị với những điều kiện thỏa hiệp không chống Pháp và nhận trang bị vũ khí của người Pháp vẫn để vũ trang cho giáo dân chống Việt Minh.
Năm 1954, quân Pháp thất bại trong [[trận Điện Biên Phủ]] và [[Hiệp định Geneve]] được ký kết. Lo ngại trước viễn cảnh những người Cộng sản kiểm soát hoàn toàn miền Bắc, Giám mục [[Lê Hữu Từ]], [[Phạm Ngọc Chi]] và nhiều chức sắc Công giáo, lãnh đạo gần một triệu giáo dân di cư vào Nam.
Ngày [[5 tháng 1]] năm 1957, do sự đề cử của Khâm sứ Tòa Thánh Caprio tại Sào Gòn, ông được Tòa Thánh đặt làm Đặc ủy Tông tòa chuyên trách về Công giáo Tiến hành Việt Nam. Ngày [[5 tháng 7]] năm 1957, Tòa Thánh bổ nhiệm ông làm Giám quản Ðịa phận Qui Nhơn và ngày [[24 tháng 11]] năm 1960, trở thành Giám mục Chính tòa Qui Nhơn khi giáo phận này được thành lập.
==Một giáo sĩ chống Cộng nhiệt thành==
==
Sau năm 1975, ông vẫn tiếp tục cai quản giáo phận của mình. Giữ năm 1984, nhà nước Việt Nam trưng dụng nhiều cơ sở Công giáo trên Giáo phận Đà Nẵng, trong đó có Tòa Giám mục, Tiểu chủng viện Thánh Gioan, Nhà hưu dưỡng các linh mục. Ông phải chuyển đến lưu trú tại Nhà xứ Giáo xứ Chính Tòa một thời gian ngắn, rồi tháng 7 năm 1984, về an dưỡng tại Giáo xứ Trung tâm Thánh Mẫu Trà Kiệu cho tới khi qua đời. Việc cai quản giáo phận lại cho Giám mục phó [[Phanxicô Xaviê Nguyễn Quang Sách]].<ref>''Lược sử Giáo phận Đà Nẵng'', Nhà xuất bản Tôn Giáo, 2012.</ref>
▲Ngày 18-1-1963, [[Giáo hoàng Gioan XXIII]] ký sắc lệnh tách Ðà nẵng ra khỏi [[Giáo phận Qui Nhơn]] và đặt ông làm Giám Mục tiên khởi cho Ðịa Phận mới Ðà Nẵng.
Trong những năm cuối đời, sức khỏe của ông thất thường, có lần phải đưa về Đà Nẵng điều trị một thời gian. Đầu năm 1988, bệnh tình ông trở nặng và ông qua đời ngày [[21 tháng 1]] năm 1988, thọ 79 tuổi.<ref>Linh mục Antôn Nguyễn Trường Thăng, ''Những ngày cuối đời của Đức cha Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, Giám mục tiên khởi Giáo phận Đà Nẵng'', tháng 01 năm 2009.</ref>
▲Phạm Ngọc Chi tiếp tục tư tưởng chống Cộng cuồng nhiệt của mình và bày tỏ sự ủng hộ đối với quân đội Hoa Kỳ trong [[chiến tranh Việt Nam]]. Năm 1967, ông ta gửi thư phản đối Hồng y Cardin khi Hồng y Cardin bày tỏ ý muốn yêu cầu phía Hoa Kỳ tôn trọng quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam và rút quân khỏi Việt Nam.<ref>Trần Tam Tỉnh. ''Thập Giá và Lưỡi Gươm''. Chương III: Giáo hội trong cơn bão bùng. Mục 6: Giáo hội đối diện với vấn đề hòa bình</ref> Trong một chuyến công du Hoa Kỳ tháng 12 năm 1969, Phạm Ngọc Chi lại bày tỏ sự ủng hộ đối với sách lược ''[[Việt Nam hóa chiến tranh]]'' của Nixon và khước từ sự liên hiệp với phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.<ref>Trần Tam Tỉnh. ''Thập Giá và Lưỡi Gươm''. Chương III: Giáo hội trong cơn bão bùng. Mục 7: Nỗi hăm dọa của hòa bình</ref>
▲Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi qua đời ngày 21/1/1988, thọ 79 tuổi. Trong chúc thư của ông của đoạn: ''"Ðối với những người thù ghét tôi, làm khổ tôi, nếu có, tôi không có buồn giận ai cả. Trái lại, tôi xin Chúa chúc lành cho họ. Họ làm như thế là làm cho tôi, vì tôi có dịp lập công, đền tội, nhất là trong những ngày sau hết đời tôi. Về nơi chôn cất thì ở đâu cũng được. Xác đất vật hèn: rồi chúng ta sẽ ra tro và bụi hết. Ðến đây tôi xin để lại cho mọi người một ý tưởng sau hết mà tôi đã nói đi nói lại nhiều lần: "Vanitas Vanitatum et omnis vanitas: Phù vân nối tiếp phù vân, mọi sự đều là phù vân. Propter amare Deum et Illi Soli servire: trừ sự kính mến Ðức Chúa Trời và làm tôi một mình Người"<ref>Trích Chúc Thư của Ðức cố Giám Mục Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi, http://www.catholic.org.tw/vntaiwan/05viet/vnam045.htm</ref>''
==Chú thích==
|