Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyên Vũ Tông”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
Không có tóm lược sửa đổi
Dòng 37:
| cha = [[Đáp Lạt Ma Bát Lạt]] (Darmabala)
| mẹ = [[Đáp Kỷ]] (Dagi)
| sinh = 9/7/1281 <small>(Âm lịch)</small><ref name=NS22>[http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%85%83%E5%8F%B2/%E5%8D%B7022 Nguyên sử, quyển 22]</ref>
| nơi sinh =
| mất = 1311
Dòng 48:
 
== Gia thế ==
Ông nguyên tên là '''Qayshan''' ([[Tiếng Mông Cổ]]: {{mongolUnicode|ᠬᠠᠶᠢᠰᠠᠩ}}, Хайсан; phiên âm Hán: 海山, Hải Sơn), thuộc dòng họ hoàng gia [[Borjigin]] của nhà Nguyên. Ông là con trai trưởng của [[Thai cát]] [[Darmabala]] ([[Đáp Lạt Ma Bát Lạt]])<ref>Nguyên sử, quyển 115 - Liệt truyện 2: Thuận Tông</ref>, tức cháu gọi [[Nguyên Thành Tông]] là chú ruột. Me ông là Dagi ([[Đáp Kỷ]]), người bộ tộc [[Khunggirad]] ([[Hoằng Cát Lạt]]). Em ruột ông là [[Ayurbarwada]] (phiên âm Hán: 愛育黎拔力八達, ''[[Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt]]''), sau này trở thành vua [[Nguyên Nhân Tông]].
 
== Sự nghiệp ==
Năm 1299, ông [[Nguyên Thành Tông]] được cử sang đất Mông Cổ làm tướng quân thống lĩnh kỵ binh Mông Cổ bảo vệ phía tây lãnh thổ nhà Nguyên, chống lại cuộc xâm lăng của [[Kaidu]] ([[Hải Đô]] (Kaidu) và cuộc tranh giành của các hoàng tử nhà Nguyên tại vùng [[Trung Á]]. Năm 1301, ông mở trận quyết chiến với Hải Đô. Kết quả là Hải Đô thua và chết trận, bên của Hải Sơn tuy thắng nhưng chính ông bị thương tích và quân đội ông cũng bị thiệt hại không nhẹ. Nhờ chiến công trong quân sự, ông được vua [[Nguyên Thành Tông]] phong là ''Hoài Ninh vương'' vào năm 1304.
 
Năm 1299, ông được cử sang đất Mông Cổ làm tướng quân thống lĩnh kỵ binh Mông Cổ bảo vệ phía tây lãnh thổ nhà Nguyên, chống lại cuộc xâm lăng của [[Hải Đô]] (Kaidu) và cuộc tranh giành của các hoàng tử nhà Nguyên tại vùng [[Trung Á]]. Năm 1301, ông mở trận quyết chiến với Hải Đô. Kết quả là Hải Đô thua và chết trận, bên của Hải Sơn tuy thắng nhưng chính ông bị thương tích và quân đội ông cũng bị thiệt hại không nhẹ. Nhờ chiến công trong quân sự, ông được vua [[Nguyên Thành Tông]] phong là ''Hoài Ninh vương'' vào năm 1304.
 
Trong thời gian ông sống là thời kỳ đầy biến động, nhà Nguyên đầy rẫy sự tranh chấp nội bộ, và các hoàng gia đấu đá diệt lẫn nhau chỉ để giành lấy ngai vàng. Trước đây, Mông Cổ luôn chọn những người có tài năng trong hoàng tộc [[Borjigin]] lên làm thủ lĩnh (vua), không cần biết người đó là con hay cháu vua tiền nhiệm, quan hệ họ hàng thân hay sơ, chỉ cần có tài là được lên ngôi. Nhưng đến khi [[Hốt Tất Liệt]] lập ra [[nhà Nguyên]], nuốt trọn Trung Nguyên, chiếm nhiều nơi, giành lấy một vùng lãnh thổ lớn nhất thế giới, cho rằng công đó chỉ thuộc về mình, nên ông ta quyết định theo chế độ "truyền tử" của Trung Hoa, chỉ nhường ngôi cho con thôi. Điều đó khiến các hoàng thân quốc thích khác cùng những cố đại thần trong triều bất bình, đặc biệt là những người cho rằng mình có đủ tư cách lên ngôi lại càng thấy ấm ức hơn. Chính vì vậy để tranh ngôi báu, hoàng tộc nhà Nguyên suốt thời gian dài từ sau vua Nguyên Thành Tông trở về sau, các cuộc đấu đá tiêu diệt lẫn nhau xảy ra liên miên trong nội bộ hoàng gia. Lúc bấy giờ, vua Thành Tông không có con trai nối dõi, nên tất nhiên phải chọn một người tài năng trong hoàng tộc để lập lên ngôi. Hải Sơn - tức Vũ Tông - là người có đủ tư cách để làm ứng cử viên để được lên ngôi sau khi Thành Tông băng hà.