Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Giáo hoàng Biển Đức XV”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Không có tóm lược sửa đổi
n clean up, replaced: Giáo Hoàng → Giáo hoàng (7) using AWB
Dòng 18:
'''Giáo hoàng Biển Đức XV''' ([[latinh|tiếng Latinh]]: ''Benedictus PP. XV'', [[tiếng Ý]]: ''Benedetto XV''; [[21 tháng 11]], [[1854]] - [[22 tháng 1]], [[1922]]; tên khai sinh: '''Paolo Giacomo Giovanni Battista della Chiesa''') là [[giáo hoàng]] của [[Giáo hội Công giáo Rôma]] từ ngày [[3 tháng 9]], [[1914]] đến ngày [[22 tháng 1]], [[1922]], kế vị giáo hoáng [[Giáo hoàng Piô X|Piô X]] ([[1903]]-[[1914]]). Triều đại của ông phần lớn bị bao phủ bởi [[Chiến tranh thế giới thứ nhất|Chiến tranh Thế giới thứ nhất]], khi ấy, ông đã tuyên bố tính trung lập của [[Tòa Thánh]].
 
Lịch sử Giáo Hội Công Giáo trong thời Giáo Hoànghoàng Bênêđíctô XV dính liền với một thảm họa lớn đã càn quét Âu Châu trong thời kỳ này: Ðại Chiến Thế Giới I. Giáo Hoànghoàng Bênêđíctô đã giữ thái độ trung lập chính trị và cực lực lên án các lạm dụng của bất cứ phe phái nào, một cách công khai hay riêng tư, bất cứ khi nào ông nhận thấy.
== Trước khi thành giáo hoàng ==
Giáo hoàng Benedictus XV sinh ngày 21.11.1854 tại Genua, Ý tên gọi là Marquese Giacomo della Chiesa. Ông sinh ra trong một gia đình thuộc giới quý tộc xưa của Lombardi, miền bắc nước Italia hiện đại.
Dòng 36:
== Giáo hoàng ==
=== Cơ mật viện ===
Năm 1914, những ngày đầu của Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Giáo hoàng Piô X băng hà. Trong cơ mật viện, hai phe đối lập nhau là “phe các Piô” do các chức sắc thân cận của giáoGiáo hoàng quá cố (Merry del Val, De Lai, Lafontaine) dẫn dắt.
 
Phe kia bảo vệ chính sách của Lêô XIII, do Domenico Ferrata và Pietro Gasparri hướng dẫn. Della Chiesa giữ vai trò ôn hòa. Cuối cùng thì 57 vị Hồng y họp bầu Hồng y Giacomo Della Chiesa lên ngôi Giáo hoàng vào ngày 03.9.1914 sau 3 ngày, qua 10 lần bỏ phiếu, tước vị là Giáo hoàng Benedictô XV.
Dòng 58:
Lập trường của Benedict XV là: “Trước tiên, điểm cơ bản là phải thay thế sức mạnh của vũ khí bằng sức mạnh đạo đức của luật pháp, từ đó đưa đến một thỏa thuận công bằng về việc giải trừ binh bị đồng loạt cho cả mọi phía... Sau đó, thay thế quân đội bằng tổ chức trọng tài với chức năng hòa giải theo những quy định được thỏa thuận về những biện pháp chế tài cụ thể với quốc gia nào không chịu chấp hành... Về việc bồi thường thiệt hại, ta không thấy phương thế giải quyết nào bằng nguyên tắc cùng tương trợ lẫn nhau. Việc ấy hợp lý, vì biết bao lợi ích rút ra từ việc giải trừ binh bị”.
 
Giáo hoàng cũng cho phép trợ cấp các nạn nhân chiến cuộc: năm triệu rưởi tiền Ý của quỹ giáoGiáo hoàng và ba mươi triệu tiền quyên góp của người Công Giáo trên thế giới.
 
Mặc dù Bênêđíctô XV đôi khi bị nghi ngờ và bị chỉ trích bởi các quốc gia có tham dự trong cuộc chiến vì ông từ chối đứng về phe này hay phe kia, nói cho cùng ông đã thi hành nhiều công việc hơn bất cứ một trung gian quốc tế nào để phá vỡ các bức tường thù hận.
Dòng 66:
Trong bài diễn văn tại hội nghị các hồng y ngày 22 tháng 1 năm 1915, ông giải thích: “ Ta bài xích mạnh mẽ mọi sự bất công của bất cứ bên nào có thể đã phạm, nhưng làm cho thẩm quyền giáo hoàng liên lụy vào những mối tranh chấp riêng của những kẻ tham chiến thì chắc chắn không phải thích hợp, cũng không phải là hữu ích”.
 
Chính sách hòa bình của Vatican đã khiến cho tòa thánh bị gạt ra ngoài khi ký hiệp ước Versailles. Thế nhưng Benedictus đã đạt đực sự thừa nhận quy chế siêu quốc gia của tòa thánh (điều 238). Nhưng giáoGiáo hoàng tỏ ra rất bi quan về việc giải quyết những xung đột. Trong thông điệp Pacem, Dei munus pulcherrimum (Hòa bình, món quà đẹp nhất của Thiên Chúa) ngày 23 tháng 5 năm 1920, ông ghi nhận rằng hiệp ước đã không “nhổ tận gốc rễ những mầm mống của những bất hòa xưa”.
=== Truyền giáo ===
Ông kêu mời các vị thừa sai tích cực lo việc truyền giáo qua thông điệp Maximum illud (ngày 30-11-1919). Thông điệp này của ông nói về các xứ truyền giáo và về hàng giáo sĩ bản xứ, ông đã kêu mời các vị thừa sai hãy tách rời hoạt động tông đồ của mình khỏi ảnh hưởng chính trị của nước quê hương mình và thẳng thắn phê phán các thừa sai "đã quên chức năng của mình, lo cho lợi ích quốc gia mình hơn là Nước Trời... Thái độ đó giống như bệnh dịch trong việc Tông đồ".
Ông kêu gọi lương tâm trách nhiệm các thừa sai phải giới thiệu những giám mục "bản xứ". Ông nêu lên việc cần gấp hàng giáo sĩ địa phương: (...) Còn một điểm mà tất cả những vị lãnh đạo việc truyền giáo có bổn phận phải để tâm chú ý đặc biệt. Đó là việc tuyển mộ và huấn luyện hàng giáo sĩ bản xứ (...). Các giáoGiáo hoàng nài nỉ điều này để tránh xảy ra tình trạng đáng trách. Có những nơi, đạo Công giáo đã du nhập từ nhiều thế kỷ, thế mà tại đó, vẫn chỉ có hàng giáo sĩ bản xứ hoàn toàn phụ thuộc.
Cũng có nhiều dân tộc đã sớm được ánh sáng Tin Mừng soi chiếu, đã thoát khỏi đời sống man rợ để vươn lên đời sống văn minh, đã sản sinh ra những nhân vật nổi tiếng, trong các lãnh vực nghệ thuật và khoa học, thế mà vẫn chưa thành công (sau nhiều thế kỷ hoạt động bác ái từ thiện của Phúc Âm và Giáo hội), để làm phát sinh những giám mục và linh mục có uy tín đối với những người đồng hương. Người ta phải nhận ra rằng, có cái gì thiếu sót hay sai lầm trong việc huấn luyện hàng giáo sĩ hoạt động truyền giáo (...).
Dòng 82:
Mặc dù Giáo Hội Công Giáo không mạnh mẽ lên án chủ thuyết này cho đến khi bắt đầu cảm thấy hậu quả của nó, vào khoảng đầu năm 1878, [[Giáo hoàng Lêô XIII]] nhìn thấy trước sự nguy hiểm của chủ thuyết cộng sản khi ông gọi lý thuyết của [[Karl Marx]] là "căn bệnh hiểm nghèo lọt vào xã hội loài người chỉ để làm hư nát." Sứ điệp Fatima nói rằng phương cách duy nhất khiến chủ thuyết cộng sản tan rã là qua sự cầu nguyện của Kitô Hữu, chứ không phải sức mạnh quân sự.
 
Nhờ sự khéo léo và tế nhị của vị Giáo hoàng có biệt tài ngoại giao này, nước Ý sau chiến tranh đã xích lại gần Tòa thánh hơn. Hồng y Gasparri, lúc kết thúc đại chiến đã cố gắng nối lại các quan hệ giữa tòa thánh và các dân tộc. Số các quốc gia có đại diện ở Vatican tăng lên. Nước Pháp nối lại bang giao với Toà Thánh (1920), và năm 1921 Giáo Hoànghoàng ban cho Nhà Nước Pháp được quyền giám sát các việc bổ nhiệm Giám mục. Bênêđitô XV đã phong thánh cho thánh nữ Jeanne d'Arc và lập lễ Thánh Gia Thất.
 
Ông qua đời vào năm 1922 sau cơn bệnh sưng phổi.