Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nguyễn Mộng Tuân”
Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n Robot: Sửa đổi hướng |
n clean up, General fixes using AWB |
||
Dòng 10:
Theo học giả Nguyễn Kim Măng<ref>Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu Hán Nôm</ref> thì: Nguyễn Mộng Tuân, không rõ năm sinh và năm mất, tự là Văn Nhược, hiệu Cúc Pha, người làng Viên Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa. Ông đỗ Thái học sinh khoa Canh Thìn đời Hồ Quý Ly niên hiệu Thánh Nguyên nguyên niên (1400). Khi quân [[Nhà Minh|Minh]] xâm lược [[Đại Việt]], ông lui về ở ẩn một thời gian, sau đó đến với nghĩa quân [[Lam Sơn]] và được [[Lê Thái Tổ|Lê Lợi]] trọng dụng. Đời [[Lê Thái Tông]], ông giữ chức Trung thư lệnh rồi Khinh xa đô úy. Đời [[Lê Nhân Tông]] ông giữ chức Tả Nạp ngôn, rồi Tri quân dân Bắc đạo, cùng Bình chương Lê Thụ đi đánh Chiêm Thành, trở về được vinh phong là Vinh Lộc đại phu.<ref>Nguyễn Kim Măng, "Về tiểu sử và tác phẩm của Cúc Pha Nguyễn Mộng Tuân".</ref>
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Thiên thì: Nguyễn Mộng Tuân, tự Văn Nhược, hiệu Cúc Pha, sinh năm 1380, không rõ năm mất, quê ở xóm Chằm, làng Viên Khê, xã [[Đông Anh, Đông Sơn|Đông Anh]], huyện [[Đông Sơn, Thanh Hóa|Đông Sơn]], tỉnh [[Thanh Hóa]]. Ông đỗ Thái Học Sinh, kỳ thi năm Canh Thìn (1400), tháng 8 mùa thu, đời nhà Hồ, với đầu đề bài thi là
==Quan nghiệp==
Nguyễn Mộng Tuân tham gia giám khảo các kỳ thi Tiến sĩ khoa Nhâm Tuấn (1442) với vai trò là Trung Thử sảnh, Trung Thư Thị Lang; và kỳ thi năm Mậu Thìn (1448) - Môn hạ sảnh Tả ty Tả nạp ngôn Tri Bắc đạo quân dân bạ tịch. Nguyễn Mộng Tuân từng tiếp các đoàn sứ bộ của các nước, đặc biệt ông còn được mời vào dạy vua học ở tòa Kinh Diên, và từng giữ chức Tế Tửu (hiệu trưởng) [[Văn Miếu - Quốc Tử Giám|Quốc Tử Giám]], được vua trọng ban cho lễ ưu đãi tuổi già.
<!-- Nguyễn Mộng Tuân là bậc khai quốc công thần có những đóng góp quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ vương triều Lê Sơ, cũng như việc đóng góp của ông vào sự lên ngôi của nho giáo trong triều đại Lê Sơ. -->Nguyễn Mộng Tuân vừa là danh nho, vừa là một võ tướng, vừa là nhà chính trị có tầm nhìn xa, trông rộng:
Nguyễn Mộng Tuân là người cương trực, khẳng khái vì lợi ích của nhân dân và quốc gia đại sự. Nhưng cuối đời Nguyễn Mộng Tuân vẫn không tránh được hậu họa. Do đó Hậu duệ của Nguyễn Mộng Tuân đã chuyển đến làng Phủ Lý Nam xã [[Thiệu Trung]], huyện [[Thiệu Hóa]] sinh sống kể từ cuối thế kỷ XV và đổi tên lót từ Nguyễn Mộng sang Nguyễn Xuân kể từ đó<ref name="NMT-THTRUNG">{{Chú thích web| url = http://tocnguyenxuan.org/Guest/Default.asp?crt=Article&mID=235&ID=1383| title = Nguyễn Mộng Tuân}}</ref>.
===Văn nghiệp===
Dòng 25:
====Thơ====
Theo [[Phan Huy Chú]] trong [[Lịch triều hiến chương loại chí]], thiên Nghệ văn chí:
Còn Lê Quý Đôn trong Toàn Việt thi lục đã đưa ra một con số cụ thể là
Thơ chữ Hán của Nguyễn Mộng Tuân được chép rải rác trong nhiều sách khác nhau, số bài được tuyển cũng khác nhau, sách chép nhiều nhất là 140 bài, ít nhất là 6 bài. Cụ thể như sau:
|