Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Toa Đô”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
Bình Giang (thảo luận | đóng góp)
Dòng 6:
Năm Chí Nguyên thứ 5, [[Aju]] vây [[Tương Dương]], cử Toa Đô tuần tiễu. Toa Đô đoạt được một loạt trại của quân [[nhà Tống|Tống]], có trận tự chém được hơn 300 thủ cấp quân Tống. Năm Chí Nguyên thứ 9 (1272), quân Nguyên tấn công [[Phàn Thành]]. Toa Đô được cử làm tiên phong, lập được công và được trọng thưởng. Sau đó, trong các chiến dịch ở [[Giang Nam]], Toa Đô tiếp tục lập nhiều quân công, được cấp trên chú ý và cất nhắc lên cách chức như tham tri chính sự hành tỉnh<ref>Hành tỉnh (行省) là cơ quan của nhà Nguyên quản lý việc chinh phạt các vùng đất.</ref> [[Phúc Châu]], rồi tả thừa hành tỉnh [[Tuyền Châu]].
 
==Tại chiến trường Chiêm Thành và Đại Việt==
Năm Chí Nguyên thứ 18 (1281), Toa Đô được cử làm hữu thừa, hành tỉnh Chiêm Thành. Năm Chí NguyênTháng thứ12 19năm (1282), Toa Đô chỉ huy một [[hạm đội]] 20 vạn quân với 1 ngàn thuyền<ref>Về lực lượng của Toa Đô, các sử liệu Việt Nam ghi các con số khác nhau. Đại Việt sử ký Bản kỷ toàn thư quyền 5 ghi là 50 vạn. Còn Việt Nam sử lược lại ghi chỉ 10 vạn.</ref> xuất phát từ Quảng ĐôngChâu đi tấn công [[Chiêm Thành]]. Đây là một phần của kế hoạch giáp công đánh [[Đại Việt]], theo đó Toa Đô sau khi đánh xong Chiêm Thành sẽ từ phía Nam đánh lên. Còn đại quân của [[Thoát Hoan]] sẽ từ phía Bắc đánh xuống. Do người Chiêm Thanh rút vào rừng núi kháng cự quyết liệt, nên đạo quân của Toa Đô phải chiến đấu rất vất vả mà vẫn không tạo được cơ sở vững chắc ở Chiêm Thành để tiến đánh Đại Việt.
 
Ngày 30 tháng 12 năm 1282, quân Toa Đô đến bờ biển gần kinh đô Vijaya của Chiêm Thành. Toa Đô cử sứ giả đi dụ hàng, nhưng vua tôi Chiêm Thành không tuân phục. Mãi đến ngày 13 tháng 2 năm 1283, Toa Đô mới ra lệnh đánh. Toa Đô chia quân làm 3 cánh. Cánh chủ lực gồm 3 nghìn quân do đích thân Toa Đô chỉ huy chia làm 3 mũi tấn công vào mặt phía Nam của tòa thành gỗ mà quân Chiêm Thành đang giữ để bảo vệ kinh đô. Cánh thứ hai tấn công mặt Bắc. Cánh thứ ba tấn công mặt Đông. Tuy nhiên, chưa đến trận địa thì quân của Toa Đô đã gặp phải biển động khiến số thuyền bị vỡ mất 7, 8 phần mười. Tuy vậy, đến chiều tối quân Toa Đô đã chiếm được thành.<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 151.</ref>
 
Ngày 17 tháng 2 năm 1283, Toa Đô tiến đánh kinh đô Vijaya. Ngày 21, quân Toa Đô tiến vào kinh thành sau khi quân Chiêm Thành đã bỏ kinh đô, rút lên núi rừng.<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 149.</ref>
 
Vua Chiêm Thành là Indravaman V sai sứ đến thương thuyết hoãn binh với Toa Đô, giả là vua Chiêm Thành xin hàng. Toa Đô mắc lừa không truy kích quân Chiêm Thành giúp Chiêm Thành có thời gian khoảng 1 tháng để chấn chỉnh và tăng cường được lực lượng.<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 151-160.</ref>
 
Ngày 16 tháng 3 năm 1283, Toa Đô bắt đầu đánh tiếp. Do người Chiêm Thanh rút vào rừng núi kháng cự quyết liệt, nên đạo quân của Toa Đô phải chiến đấu rất vất vả. Toa Đô rút quân khỏi kinh đô Vijaya và ra bờ biển Quy Nhơn ngày nay lập trại. Quân lính của Toa Đô bỏ trốn nhiều.<ref>Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm (1972), trang 161-166.</ref>
 
Do lương thực hết, do viện binh đã xin mà không sang, Toa Đô quyết định rút quân lên miền Bắc Chiêm Thành, gần biên giới với Đại Việt, xây thành gỗ, mở đồn điền sản xuất lương thực. Điều này khiến cho đạo quân tiếp viện do Qutuqu (Hốt Đô Hốt hoặc Hốt Đô Hổ), Omar (Ô Mã Nhi) chỉ huy tới Quy Nhơn không gặp được Toa Đô; sau đạo quân này bị đắm thuyền rất nhiều vì bão.
 
Mãi tới đầu năm 1285, Toa Đô mới rời Chiêm Thành tiến vào Đại Việt để phối hợp tác chiến với Thoát Hoan.
 
==Tại chiến trường Đại Việt==
 
[[Việt Nam sử lược]] chép rằng, năm 1285 khi đại quân nhà Nguyên tiến vào Đại Việt, Toa Đô đành bỏ [[Chiêm Thành]], dẫn quân theo đường bộ tiến lên phía Bắc. [[Ô Mã Nhi]] được lệnh của Thoát Hoan xuống đón Toa Đô. [[Trần Quang Khải]] đem quân vào [[Nghệ An]] ngăn chặn Toa Đô, nhưng ban đầu bị Toa Đô và Ô Mã Nhi đánh tan. Trấn thủ Nghệ An là Trần Kiện đem cả nhà ra hàng Toa Đô. Tuy nhiên, sau đó Trần Quang Khải đã kìm chân Toa Đô thành công. Toa Đô và Ô Mã Nhi bèn theo đường biển lên phía Bắc.