Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Trận chiến đảo Rennell”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
n clean up, replaced: sữa chữa → sửa chữa, → using AWB
n General Fixes
Dòng 1:
{{Infobox Military Conflict
|conflict=Trận chiến đảo Rennell
|image=[[FileTập tin:USS Chicago after Rennell Island.jpg|300px]]
|caption=Tuần dương hạm hạng nặng USS ''[[USS Chicago (CA-29)|Chicago]]'' vào sáng ngày 30 tháng 1 năm 1943, bị hư hại nặng do bị tấn công bằng ngư lôi đêm trước đó.
|partof=[[Chiến tranh Thái Bình Dương|Mặt trận Thái Bình Dương]] trong<br>[[Chiến tranh thế giới thứ hai]]
Dòng 35:
== Diễn biến chiến dịch ==
=== Diễn biến ban đầu ===
[[FileTập tin:RennellChicago.jpg|thumb|right|Các tuần dương hạm hạng nặng thuộc Lực lượng Đặc nhiệm 18 của Giffen trên đường tiến đến Guadalcanal ngày 29 tháng 1 năm 1943, ảnh chụp một giờ trước khi các máy bay Nhật bắt đầu tấn công với góc chụp từ chiếc USS ''Wichita''. USS ''Chicago'' ở giữa bên phải còn ở phía xa là chiếc ''Louisville''.]]
Để bảo vệ đoàn chuyển vận hiệu quả hơn, TF 18 được giao nhiệm vụ gặp bốn khu trục hạm, đóng tại Tulagi, vào lúc 21 giờ ngày 29 tháng 1 để thực hiện một cuộc rà soát quanh khu vực "The Slot" phía bắc Guadalcanal ngày hôm sau để bảo vệ cho việc dỡ hàng của các chuyển vận hạm tại Guadalcanal.<ref name="guadalcanal578"/> Tuy nhiên các tàu sân bay hộ tống do Đại tá Ben Wyatt chỉ huy di chuyển quá chậm (18 [[hải lý]] - 33&nbsp;km/giờ) nên Giffen không thể theo kịp lịch trình, do đó ông phải buộc lòng để các tàu sân bay hộ tống này lại phía sau với hai khu trục hạm vào lúc 14 giờ ngày 29 tháng 1 và bám theo lịch trình với lực lượng còn lại ở vận tốc 24 hải lý (44&nbsp;km/giờ).<ref name="Morison354">{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=354}}.</ref>
 
Dòng 43:
 
=== Ngày 29 tháng 1 ===
[[FileTập tin:RennellBattleMap.jpg|thumb|left|Mũi tên màu đỏ thể hiện cuộc không kích của các oanh tạc cơ Nhật còn mũi tên màu đen là Lực lượng đặc nhiệm 18 đang ở vị trí giữa đảo Rennell và Guadalcanal đêm 29 tháng 1 năm 1943]]
Khi mặt trời lặn, TF 18 hướng về phía tây bắc. Ở vị trí 80&nbsp;km (50 dặm) phía bắc đảo Rennell và 260&nbsp;km (160 dặm) phía nam Guadalcanal, nhiều chiến hạm của Giffen bằng [[radar]] đã phát hiện nhiều máy bay không xác định cách đội hình 97&nbsp;km (60 dặm) về phía tây. Do phải giữ im lặng vô tuyến, Giffen đã không đưa bất kỳ mệnh lệnh nào về các đối tượng không xác định đó.<ref name="Crenshaw62"/> Khi mặt trời lặn, các máy bay tuần tra của TF 18 từ các tàu sân bay hộ tống buộc phải hạ cánh do trời tối, khiến cho các tàu chiến của Giffen không còn được bảo vệ ở trên không.<ref name="Samuel Eliot Morison 1958 355">{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=355}}.</ref>
 
Dòng 53:
 
=== Ngày 30 tháng 1 ===
[[FileTập tin:ChicagoTow.jpg|thumb|right|USS ''Louisville'' (bên phải) kéo tuần dương hạm ''Chicago'' bị thương vào sáng ngày 30 tháng 1 năm 1943]]
Halsey ngay lập tức tiến hành các biện pháp để bảo vệ chiếc ''[[USS Chicago (CA-29)|Chicago]]'', lệnh cho các hàng không mẫu ham hộ tống luôn phải duy trì máy bay tuần tra, lực lượng đặc nhiệm ''Enterprise'' hỗ trợ cho việc tuần tra trên và đưa chiếc tàu dắt ''Navajo'' thay cho ''Louisville'' làm nhiệm vụ kéo ''Chicago'' về vào lúc 8 giờ.<ref name="Crenshaw63"/> Từ buổi sáng cho đến 14 giờ chiều, nhiều trinh sát cơ Nhật Bản đã tiếp cận TF 18. Mặc dù bị các máy bay tuần tra Hoa Kỳ đuổi đánh, các trinh sát cơ này cũng đã kịp ghi nhận và báo cáo lại vị trí của chiếc ''Chicago''. Lúc 12 giờ 15, một lực lượng gồm 11 oanh tạc cơ phóng ngư lôi của Liên đoàn bay 751 Nhật Bản, căn cứ tại [[Kavieng]] và bay ngang [[Buka]] đã được triển khai để tấn công chiếc tuần dương hạm đang bị thương. Một quan sát viên bờ biển người [[Úc]] tại quần đảo Solomon đã cảnh báo quân Hoa Kỳ về các oanh tạc cơ trên và ước tính khi chúng đến mục tiêu là 16 giờ. Tuy nhiên, Halsey thay vì giữ lực lượng mạnh bảo vệ ''Chicago'' đã lệnh cho các tuần dương hạm còn lại để chiếc ''Chicago'' ở lại phía sau và hướng về [[Efate]] tại [[New Hebrides]]. Các tàu chiến khởi hành lúc 15 giờ, chỉ để lại sáu khu trục hạm bảo vệ ''Chicago'' và ''Navajo''.<ref>{{harvnb|Frank O. Hough|pp=579-580}}; {{harvnb|Osamu Tagaya|2001|pp=66–67}}.</ref>
 
Vào lúc 15 giờ 40 phút, tàu sân bay ''Enterprise'' lúc này cách chiếc ''Chicago'' 69&nbsp;km đã phóng mười chiến đấu cơ làm nhiệm vụ tuần tra quanh chiếc tuần dương hạm bị thương này. Bốn chiến đấu cơ trong quá trình tuần tra đã phát hiện và bắn rơi một chiếc oanh tạc cơ Nhật làm nhiệm vụ trinh sát. 14 phút sau, radar của ''Enterprise'' phát hiện ra dấu hiệu những chiếc oanh tạc cơ Nhật đang bay đến nên chiếc tàu sân bay này đã phóng lên thêm mười chiến đấu cơ nữa. Trong khi đó, các tàu sân bay hộ tống gặp vấn đề trong việc cất cánh các máy bay nên đã không tham gia vào trận đánh cho đến tận khi nó kết thúc.<ref>{{harvnb|Samuel Eliot Morison|1958|p=360}}.</ref>
[[FileTập tin:RennellBattleMap2.jpg|thumb|left|Mũi tên màu đỏ thể hiện cuộc không kích của các oanh tạc cơ Nhật vào chiếc ''Chicago'' (vòng tròn màu vàng) sáng ngày 30 tháng 1 năm 1943. Mũi tên màu đen là các chiến đấu cơ của tàu sân bay Hoa Kỳ.]]
 
Ban đầu, các oanh tạc cơ Nhật dự tính tấn công ''Enterprise'' nhưng sau đó đã chuyển hướng sang ''Chicago'' khi bị sáu chiến đấu cơ tuần tra đuổi đánh. Một số oanh tạc cơ khác của Liên đoàn 751 bị bốn chiến đấu cơ Hoa Kỳ và hỏa lực phòng không từ các khu trục hạm quanh ''Chicago'' chặn đánh. Hai oanh tạc cơ bị bắn hạ khi chưa kịp làm gì, sáu chiếc khác cùng số phận sau đó nhưng đã kịp phóng ngư lôi. Trong bốn chiếc oanh tạc cơ G4M còn lại, một chiếc mất một động cơ nhưng vẫn quay về được căn cứ, một chiếc hạ cánh tại [[Munda (Quần đảo Solomon)|Munda, New Georgia]] và ba chiếc còn lại đến sân bay Ballale tại [[quần đảo Shortland]].<ref>{{harvnb|Frank O. Hough|pp=580-581}}; {{harvnb|Osamu Tagaya|2001|pp=67}}.</ref>