Khác biệt giữa bản sửa đổi của “Nhà Hạ”

Nội dung được xóa Nội dung được thêm vào
nKhông có tóm lược sửa đổi
n General Fixes
Dòng 13:
| '''Diệt vong''' || khoảng [[thế kỷ 16 TCN]]<br />[[trận Minh Điều]]
|-
|colspan=3 align="center"|[[FileTập tin:Region of xia.svg|300px|thumb| {{legend|#FF8401|Khu vực hoạt động của Hạ tộc}}]]
|}
{{lịch sử Trung Quốc}}
'''nhà Hạ''' hay '''triều Hạ''' ({{zh|c=夏朝|p=Xià Cháo|v=Hạ triều}}, khoảng thế kỷ 21 TCN-khoảng thế kỷ 16 TCN{{NoteTag|1=Liên quan đến niên đại hưng vong của triều Hạ, có nhiều thuyết suy tính. [[Hạ Thương chu niên biểu]] do [[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình]] công bố ước tính là khoảng 2070 TCN- khoảng 1600 TCN, tồn tại trên dưới 470 năm{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《[[Hạ Thương Chu niên biểu|夏商周年表]]》|publisher=[[Hạ Thương Chu đoạn đại công trình|夏商周断代工程]]|date=2000-11-09|language=Trung văn giản thể}}}}; [[Trúc thư kỉ niên|cổ bản Trúc thư kỉ niên]]" ghi rằng vận nước triều Hạ là 471 năm{{NoteTag|name=夏积年}}, suy tính là 1989 TCN─1559 TCN.{{NoteTag|name=竹书四七一年|1=[[Trúc thư kỉ niên|Cổ bản Trúc thư kỉ niên]]: 自禹至桀十七世,有王與無王,用歲四百七十一年。起壬子,终壬戌。(Từ [[Hạ Vũ|Vũ]] đến [[Hạ Kiệt|Kiệt]] 17 đời, có vương và không vương, trải qua 471 năm. Bắt đầu từ năm [[Nhâm Tý]], kết thúc vào năm [[Nhâm Tuất]]){{RefTag|name=竹書紀年|1=《[[Trúc thư kỉ niên|古本竹書紀]]》.}}{{RefTag|1={{Citechú thích web|url=http://www.cnki.com.cn/Journal/H-H7-TJSS-1998-01.htm|title=夏、商、周三代纪年考辨——兼评《竹书纪年》研究的失误|author=吴晋生、吴薇薇|publisher=天津师范大学学报(社会科学版)|edition=1998年01期|accessdate=2010-12-05|language=Trung văn giản thể}}}}}}}}) là triều đại [[Trung Nguyên]] đầu tiên theo chế độ thế tập được ghi chép trong sách sử truyền thống Trung Quốc. Một số người cho rằng triều Hạ là liên minh nhiều bộ lạc hoặc quốc gia có hình thức tù bang phức tạp. Căn cứ theo ghi chép trong sách sử thì [[Tam Đại]] gồm Hạ, [[nhà Thương|Thương]], [[nhà Chu|Chu]] đều là vương triều phong kiến, quân chủ và chư hầu chia nhau mà cai trị{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中國文化史》|author=柳翼謀|date=1919|language=Trung văn phồn thể}}}}, và triều Hạ là vương triều phong kiến thị tộc thế tập đầu tiên.{{RefTag|name=晁福林|1={{Citechú bookthích sách|title=《夏商西周的社会变迁》|author=晁福林|publisher=北京师范大学出版社|date=1996年6月|isbn=7-303-04144-3|language=Trung văn giản thể}}}} Trong các văn vật thời kỳ Hạ, có số lượng nhất định lễ khí làm bằng [[đồng điếu|đồng thanh]] hoặc ngọc{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国文物精华大全•青铜卷》|publisher=国家文物局、商務印書館(香港)、上海辞书出版社|date=1994年10月|isbn=962-07-5174-4|language=Trung văn giản thể}}}}{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国文物精华大全•金银玉石卷》|publisher=国家文物局、商務印書館(香港), 上海辞书出版社|date=1994年10月|isbn=962-07-5174-4|language=Trung văn giản thể}}}}, niên đại của chúng ước tính là vào cuối [[Thời đại đồ đá mới]], đầu [[Thời đại đồ đồng]]{{RefTag|1={{Citechú thích web|url=http://db1x.sinica.edu.tw/caat/caat_rptcaatc.php?_op=?SUBJECT_ID:300018354|title=《藝術與建築索引典》 夏 Xia|publisher=AAT-Taiwan 藝術與建築索引典|accessdate=2011-06-26|language=Trung văn phồn thể}}}}. Mặc dù ghi chép liên quan đến triều Hạ trong các văn hiến truyền thống Trung Quốc là khá nhiều, song các sách này được hoàn thành khá muộn sau đó, cho đến nay vẫn chưa phát hiện được chứng cứ trực tiếp để có thể công nhận sự tồn tại của triều Hạ, như văn tự đồng thời kỳ, do đó trong giới lịch sử học cận hiện đại có người nghi ngờ tính chân thực về sự tồn tại của triều Hạ. [[Văn hóa Nhị Lý Đầu]] phát hiện được ở tây bộ [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]] và nam bộ [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]] có các điều kiện cơ bản về niên đại và vị trí địa lý của văn hóa Hạ, song do chưa khai quật được các ghi chép văn tự giống như [[giáp cốt văn|giáp cốt]] [[bốc từ]] ở [[Ân Khư]], do vậy tính tồn tại của triều Hạ vẫn không thể chứng thực được.{{RefTag|name=音乐考古学}} Nhiều học giả trong và ngoài Trung Quốc nhận định rằng di chỉ Nhị Lý Đầu ở [[Yển Sư ]] thuộc Hà Nam có khả năng là di tích đô thành của triều Hạ ít nhất là trong thời kỳ thứ nhất và thứ nhì, song hiện vẫn đang phải tìm kiếm căn cứ xác thực để làm rõ.{{RefTag|name=晁福林}}{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title={{Lang|en|The Cambridge History of Ancient China: From the Origins of Civilization to 221 B.C.}}|author={{Lang|en|Michael Loewe, Edward L. Shaughnessy}}|publisher=Cambridge University Press|date=1999-03-13|language=en|isbn=978-0521470308}}}}
 
Căn cứ theo ghi chép trong sử sách, Vũ truyền vị cho con là [[Hạ Khải|Khải]], cải biến [[thiện nhượng|thiện nhượng chế]] bộ lạc nguyên thủy, khởi đầu tiền lệ thế tập vương vị kéo dài 4000 năm trong lịch sử Trung Quốc.{{RefTag|name=中国早期国家性质|1={{Citechú thích booksách|title=《中国早期国家性质》|author=李玉洁|publisher=河南大学出版社|date=1999年10月|isbn=7-81041-690-1|language=Trung văn giản thể}}}} Triều Hạ tổng cộng truyền được 14 đời với 17 vua,{{NoteTag|name=16后}} kế tục trong khoảng 471 năm{{NoteTag|name=夏积年|1=Liên quan đến vấn đề số năm tồn tại của triều Hạ, chủ yếu có 5 thuyết. Có thuyết cho là 470 năm, hay 471 năm, tức là theo "Trúc thư kỉ niên thể hệ" cổ bản, đây là quan điểm đa số. Lại có thuyết cho là 431 năm, hay 432 năm, căn cứ theo "Trúc thư kỉ niên thể hệ" kim bản hay "Nho gia kim bản", đây là quan điểm phổ biến thứ hai. Thuyết thứ ba thì cho là 440 năm{{RefTag|1=宋末元初•金履祥,《資治通鑑thế kỷ 編》.}}. Thuyết thứ tư cho là 458 năm, hay 459 năm{{RefTag|1=宋•邵雍,《皇極經世》、元•马端临,《文献通考》.}}. Thuyết thứ năm cho là 483 năm{{RefTag|1=宋•罗泌,《路史•後紀》.}}. Hai thuyết đầu tiên có sự khác biệt là do tính hay không tính thời kỳ "vô vương" kéo dài 40 năm khi [[Hậu Nghệ]] và [[Hàn Trác]] đoạt quyền.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“夏代纪年考”|author=程平山|journal=《中原文物》|year=2004年|issue=第3期|location=中国天津}}}}. Cũng có giải thích rằng người thời trước tính từ khi [[Thuấn]] bắt đầu cai trị, còn người đời sau tính từ năm Hạ Vũ thứ nhất.{{RefTag|name=夏商周断代工程成果报告简本|1={{Citechú thích booksách|title=《夏商周断代工程1996-2000年阶段成果报告(简本)》|author=夏商周断代工程专家组|publisher=世界图书出版公司|date=2000年10月|location=中国北京|isbn=7-5062-4138-2}}}}}}, bị [[triều Thương]] tiêu diệt. Triều Hạ được xem là vương triều đầu tiên theo lịch sử truyền thống Trung Quốc, có địa vị lịch sử khá cao, người Hán đời sau thường tự xưng là "Hoa Hạ", trở thành [[Tên gọi Trung Quốc|danh từ]] đại diện cho Trung Quốc.{{NoteTag|1=hai chữ "Hoa", "Hạ" hiện nay có âm đọc tương đồng trong các phương ngữ như [[tiếng Ngô]], các nhà ngôn ngữ học do vậy ước đoán rằng hai chữ này vào thời cổ là đồng âm đồng nghĩa. Chữ "Hạ" xuất hiện sớm nhất trong "[[Kinh Thư|Thượng thư]]- Nghiêu điểu": "[[Thuấn|Đế]] viết: '[[Cao Dao]] Man Di Hoạt Hạ, khấu tặc gian quỹ{{NoteTag|1=Liên quan đến câu "Man Di hoạt Hạ", có hai thuyết giải thích: Một thuyết cho rằng "Hoạt Hạ" tức là "Hoa Hạ", "Man Di" tương ứng với "Hoạt Hạ", hai bên vào thời kỳ Nghiêu Thuấn đều bị người Trung Nguyên xem là người Man ngoại tộc, giống như một chủng "khấu tặc gian quỹ". Từ "Hoa Hạ" sau khi triều Hạ được kiến lập thì mới chuyển từ chê thành khen. Có thuyết nói chữ "hoạt" là động từ, có nghĩa là xâm loạn, vào thời viễn cổ tộc Hạ và Man Di ngoại tộc tạp cư, do vậy Man Di loạn Hạ, "khấu tặc gian quỹ" không chuyện ác nào không làm.}}, nhữ tác sĩ.'"{{RefTag|name=尧典|1=《[[Kinh Thư|尚书]]•虞书•尧典》.}}}}
 
== Quốc hiệu ==
Trong lịch sử, triều Hạ được gọi quen là "Hạ" (夏){{RefTag|name=徐俊|1={{Citechú thích booksách|title=《中国古代王朝和政权名号探源》|pages=第37—43页|publisher=华中师范大学出版社|author=徐俊|date=2000年11月|location=中国湖北武汉武昌区|isbn=7-5622-2277-0|language=Trung văn giản thể}}}} Liên quan đến nguồn gốc tên gọi "Hạ", trong giới học giả chủ yếu có 10 loại thuyết{{NoteTag|1=<br />① "Hạ" giống như "người Trung Quốc). [[FileTập tin:夏-说文解字.png|20px|"Thuyết văn giải tự" Thanh•Trần Xương Trị khắc bản chữ “夏”]]) "Hạ, giống người Trung Quốc; từ dáng đi chậm, từ cái đầu, từ cái cối, cái cối hai tay, dáng đi chậm bằng hai chân."{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《说文解字》|author=汉•[[Hứa Thận|許慎]]}}}}<br />② "Hạ" giống với dáng múa. "Hạ, khi múa, cái cối tượng trưng cho dáng tay người múa, dáng đi chậm tượng trưng cho dáng chân người múa."{{RefTag|1=清•徐灏引自宋•戴侗,《说文解字注箋》.}}<br />③ "Hạ" tượng trưng cho Đại Vũ trị thủy. “从臼,手有所持也,从夊,足有所躧也。象农夫之夏日治畦也;夏者,禹有天下之号也。象神禹之八年治水也。”{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《说文疑疑》|author=清•孔廣居}}}}<br />④ "Hạ" tượng trưng cho vật tổ là côn trùng. Trong các [[bốc từ]] Ân Khư có các giáp cốt văn nghi là chữ "Hạ" như ([[FileTập tin:夏-甲骨虫型0.png|25px|giáp cốt văn thứ nhất nghi là chữ "Hạ"]]), ([[FileTập tin:夏-甲骨虫型1.png|26px|giáp cốt văn thứ hai nghi là chữ "Hạ"]]), ([[FileTập tin:夏-oracle.svg|27px|giáp cốt văn thứ ba nghi là chữ "Hạ"]]). Có thuyết nói là tượng trưng cho [[ve sầu]], "đồng thời giống với hình râu đầu và chân cánh, ve sầu là côn trùng mùa hạ, nghe tiếng kêu của nó thì biết là mùa hạ, vì thế mà người hiền trí thời xưa mượn hình con ve sầu để biểu thị.”{{RefTag|name=叶玉森|1={{Cite journal|journal=《学衡》|title=“殷契钩沉•释夏”|author=叶玉森|year=1923年|issue=第24期|language=Trung văn phồn thể}}}}. Tuy nhiên, lại có thuyết cho là giống với thủy trùng, "truyền thuyết dân tộc Hạ, lấy Vũ là tông thần, lấy Ký là đất sinh tức, Vũ Ký cũng tức là đông tây nhất thuộc long xà quy mãnh, do đó cho tộc mình là con cháu của côn trùng, cùng với [[nhà Hán]] tự cho mình là giống rồng, tác dụng toàn đồng. Từ xét đoán qua hệ thống văn tự thì nhất định đó là quái trùng sống trong nước."{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《夏殷民族考》|author=姜亮夫|publisher=上海民族月刊社|date=1933年|language=Trung văn phồn thể}}}}<br />⑤ "Hạ" lấy từ tên sông [[Hạ Thủy]]. "Tên gọi Hạ, thực ra là từ Hạ Thủy mà thành... đất đai ở tại vùng Ung Lương, lấy sông làm tộc danh, như người họ Cơ là sinh ở chỗ Cơ Thủy, người họ Khương là sinh ở chỗ Khương Thủy."{{RefTag|1={{Cite news|author=章炳麟|title=《中華民國解》|work=《民报》第十五号|publisher=中国同盟会|location=日本东京|date=1907年7月5日|language=Trung văn phồn thể|quote=夏之為名,實因夏水而得}}}}<br />⑥ "Hạ" có nguồn gốc từ nhà làm bằng đá. Người giữ quan điểm này cho rằng chữ "Hạ" ngày nay có nghĩa khác với chữ "Hạ" thời cổ, chữ "Hạ" có hai cách dùng là "mùa hạ" và "dân tộc Hạ", hiện nay hai nghĩa có cách viết giống nhau, song khi nghiên cứu trong bốc từ và kim văn vào tảo kỳ thượng cổ, có thể thấy sự khác biệt, ứng với hai chữ vào thời kỳ viễn cổ. Chữ "Hạ" có nghĩa là mùa hạ trong giáp cốt bốc từ có hình giống con ve sầu, do ve sầu kêu không ngừng tại [[bình nguyên Hoa Bắc]] trong mùa hè, nghe tiếng ve sầu kêu là biết mùa hè đến. Chữ "Hạ" có nghĩa là dân tộc Hạ ([[FileTập tin:夏-金文2.png|20px|Chữ "Hạ" trong kim văn]]) trong kim văn, hay hình thể trong triện văn ([[FileTập tin:夏-篆体.png|25px|"Chữ "Hạ" thể triện]]) giống với phòng ốc. "Chiêu Hồn" của [[Tống Ngọc]] viết "các hữu đột hạ", [[Vương Dật]] giải nghĩa "đột tức là phục ốc, hạ tức là đại ốc, đều được gọi là hạ". [[Thuyết văn giải tự|Thuyết văn]]" nói "Hạ tự, tòng hảm", hạ thanh. Quảng giả, nhân quảng vi ốc, kỳ tự tòng hàm", cũng có "nhân quảng vi ốc, tượng đối lạt cao ốc chi hình", dùng các hang động làm thành nhà rộng, tức nhà đá.{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《东方杂志》|title=“说夏”|author=许同莘|volume=卷四二|issue=第15号|language=Trung văn giản thể}}}}<br />⑦ "Hạ" tượng trưng cho ếch nhái. Trong số đồ gốm màu loại hình Bán Sơn, Mã Xưởng khoảng 2500 năm trước, có hoa văn chủ thể là hình ếch nhái đầu tròn, thân thẳng, tư thế hai tay đưa lên, hai chân có tư thế nhảy kiểm ngồi xổm ([[FileTập tin:马厂蛙纹.png|30px|Hoa văn đồ gốm hình ếch nhái]]), là tiền thân của chữ "Hạ". Sau đó, tại vùng tiếp giáp giữa [[Cam Túc]] và đông bộ [[Thanh Hải (Trung Quốc)|Thanh Hải]] xuất hiện "hoa văn ếch nhái giản hóa" đầu tròn lớn, thân nhỏ, không chân, nhảy chỉ với hai chi trên ([[FileTập tin:简化蛙纹.png|25px|Oa văn giản hóa]]), được cho là mô tả con của động vật thủy sinh, tiền thân của chữ "tử" trong kim văn ([[FileTập tin:子-bronze.svg|25px|chữ tử trong kim văn]]).{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《内蒙古师范大学学报》|title=“龙凤传说与中华民族的起源”|author=陆思贤|year=1988年|issue=第4期|language=Trung văn giản thể}}}}{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《内蒙古师范大学学报》|title=“甘肃、青海彩陶器上的蛙纹研究”|author=陆思贤|year=1983年|issue=第3期|language=Trung văn giản thể}}}}<br />⑧ "Hạ" chỉ phương tây. Trong [[Tên chữ (người)|biểu tự]] tên người ở thời kỳ thượng cổ, nhièu khi có hiện tượng hai chữ "Hạ" và "Tây" tương phối, như Công tôn Hạ [[nước Trịnh]] có tự là Tử Tây, công tử [[Thiếu Tây]] [[nước Trần]] có tự là Hạ. Do vậy, có nghi ngờ rằng vào thời viễn cổ thì hai chữ "Hạ" và "Tây" đồng nghĩa.{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《說文通訓定聲》|author=清•[[朱骏声]]|publisher=黟县学会|date=1849年|language=Trung văn phồn thể}}}}{{RefTag|name=楊寬|1={{Cite journal|journal=《禹贡》|title=“说夏”|author=楊寬|volume=卷七|issue=第6、7合期|language=Trung văn giản thể}}}}<br />⑨ Chữ "Hạ" [[huấn độc]] là “Đại”. Dương Quốc Dũng cho rằng so với các dân tộc xung quanh thì tộc Hạ có đông nhân khẩu, kinh tế phát đạt, vũ lực cường thịnh, văn hóa tiên tiến, do vậy được các dân tộc xung quanh gọi là "Hạ tộc" (tức tộc người lớn), vùng đất họ cư trú được gọi là "Hạ địa" (tức vùng đất lớn).{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《夏史论丛》|title=“夏族渊源地域考”|author=杨国勇|publisher=中国先秦史学会编、齐鲁书社出版|year=1985年|location=中国山东济南|language=Trung văn giản thể}}}}{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《山西大学学报》|title=“黄炎华夏考”|author=杨国勇|year=1992年|issue=第4期|location=中国山西太原小店区|language=Trung văn giản thể}}}}<br />⑩ "Hạ" là vật tổ mang hình tượng loài thú giống hình dạng của người như [[Macaca|mi hầu]]. Chữ "Hạ" trong kim văn ([[FileTập tin:夏-金文.png|20px|chữ "Hạ" trong kim văn thời Tây Chu]]) giống như hình người, song bên trong bao gồm nét hình dạng của thú, từ dáng đi hay đầu, cũng như chân tay. Vùng đất phát nguyên của tộc Hạ là Mân Sơn vào thời viễn cổ có nhiều khỉ, người Hạ cũng thấy được bản năng tự nhiên của khí giống với người, liền tạo thành hình dạng chúng tạo ra chữ "Hạ" để làm vật tổ,{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《中国古代社会新研》|author=李玄伯|publisher=开明书店|pages=第110页|date=1948年9月|language=Trung văn phồn thể}}}}}}, trong đó quan điểm có độ khả tín cao nhất nhận định rằng "Hạ" là chữ tượng hình tượng trưng cho vật tổ của tộc Hạ.{{NoteTag|1=Hà Quang Nhạc tổng kết các ý kiến bình luận và bác bỏ về các hệ thống thuyết pháp khác nhau ở trên {{RefTag|name=夏源流史}}:<br />① Phe ủng hộ nhận định nhân dân thời viễn cổ hết sức mê tín, bài xích ngoại tộc, việc có cái nhìn thù địch và xem họ là ác ma quái thú khác biệt với nhân loại là điều có lý, lại thêm tiền lệ như [[Cửu Lê|tộc Cửu Lê]] của [[Xi Vưu]] làm chứng; phe phản đối cho rằng nếu nói chữ "Hạ" tượng trưng cho người Trung Quốc, có hai tay hai chân, thì chẳng lẽ số tay chân của người ngoại quốc và người Trung Quốc có khác biệt? "Thuyết văn giải tự" là tác phẩm thời Đông Hán, nhiều chữ trong đó đã có cả nghìn năm lịch sử, khó mà có thể khảo chứng ý nghĩa ban đầu khi chữ đó được tạo thành, giải nghĩa trong tác phẩm có khả năng là theo suy nghĩ chủ quan của người thời Hán. Mặc dù người thời cổ bài xích ngoại tộc, song việc xem họ là các loại thú trong những câu truyện thần thoại truyền thuyết thực ra là do người đời sau phóng đại mà thành.{{RefTag|name=叶玉森}}<br />② Không phải chỉ có người Hạ mới biết múa, cũng không phải là thứ người Trung Quốc đặc biệt giỏi, lý lẽ của thuyết pháp này yếu, khó mà khiến người ta thấy thuyết phục.<br />③ Chữ "Hạ" có hình dạng giống với người, song việc tưởng tượng rằng chữ "cữu" là một công cụ trị thủy thì là điều khiên cưỡng, khó mà khiến người ta tin phục.<br />④ Truyền thuyết liên quan đến việc Cổn và Vũ xuất sinh phần nhiều có tương quan đến ngư long, song các truyền thuyết này chủ yếu là cố sự do người sau thời Lưỡng Hán nghĩ ra để bổ sung cho phần còn thiếu sót trong lịch sử, không có căn cứ lịch sử xã hội học, chỉ đơn thuần là truyền thuyết của hậu thế, khó mà khiến người ta tin. Trong số bốc từ giáp cốt văn không phát hiện được chữ "Hạ" khiến người ta tín phục, không thể khẳng định được chữ có hình dạng giống con ve sầu là chữ "Hạ", nên cũng không thể dùng để luận chứng ý nghĩa của chữ "Hạ". Hơn nữa, giữa thời Thương Chu chỉ phân biệt hai mùa xuân và thu, không có nói gì về hạ đông, vậy người thời Hạ sao mà có thể nghe tiếng ve sầu kêu mà biết hạ đến?<br />⑤ Hạ bắt nguồn từ Hạ Thủy, song Hạ Thủy lấy tên từ đâu, vấn đề tên gọi chưa được giải quyết. <br />⑥ Từ giáp cốt văn trong "bốc từ", không phát hiện được chữ Hạ có hình dạng giống với nhà đá, mà chữ Hạ giống hình ve sầu thì lại khác biệt so với trong kim văn, triện văn.<br />⑦ Việc cho rằng chữ "Hạ" là ếch nhái khó thuyết phục vì hình dạng khác biệt.<br />⑧ Giả sử vào thời viễn cổ hai âm "Hạ" và "Tây" có thể thay thế cho nhau, không rõ giới hạn trong tên người hay tên chữ, chỉ là suy đoán.<br />⑨ Phía phản đối cho rằng những chữ đọc giống nhau thì hình dạng cũng cần giống nhau, song ở đây thực tế là không như vậy; phe ủng hộ cho rằng hai chữ "Hạ" và "Đại" có thời gian hình thành vào thời viễn cổ, chọn dùng cách theo hình tượng để tạo chữ, việc chữ có âm giống song hình khác là khá nhiều.<br />⑩ Bộ tộc viễn cổ lấy vật tổ làm phù hiệu đại diện, phần nhiều sử dụng loài chim thú có tính cách mà bộ tộc sùng bái hoặc gần giống với bộ tộc. Vùng đất phát nguyên của tộc Hạ là Mân Sơn có nhiều khỉ, khỉ có tính cách thông minh giống người, do vậy người Hạ tôn khỉ làm vật tổ, đồng thời khắc thành văn tự.}}{{RefTag|name=夏源流史|1={{Citechú thích booksách|title=《夏源流史》|author=何光岳|publisher=江西教育出版社|date=1992年8月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5392-1337-X}}}} [[Tư Mã Thiên]] chép chữ "Hạ" (夏) là danh hiệu bộ lạc do 12 thị tộc tổ thành: Tự tính Hạ hậu thị, [[Hữu Hỗ|Hữu Hỗ thị]], Hữu Nam thị,{{NoteTag|1=有男氏, cũng viết là 有南氏.{{RefTag|name=夏源流史}}}} [[Châm Tầm (nước)|Châm Tầm thị]], Đồng Thành thị, Bao thị, Phí thị,{{NoteTag|1=費氏, còn viết là Phất thị (弗氏)}} Kỉ thị, Tăng thị, Tân thị, Minh thị, [[Châm Quán|Châm Quán thị]]{{NoteTag|1=ghi khác là Châm Qua thị (斟戈氏), Châm Quan thị (斟觀氏).}} Vua Hạ là thủ lĩnh của bộ lạc, do vậy sau khi kiến lập triều Hạ, lấy tên bộ lạc làm quốc hiệu.{{RefTag|name=夏本纪}} [[Trương Thủ Tiết]] thời [[nhà Đường|Đường]] thì nhận định "Hạ" là do Đại Vũ thụ phong tại Dương Trạch làm "Hạ Bá", sau lấy làm tên. Lại có thuyết nói "Hạ" bắt nguồn từ địa danh "Hữu Hạ chi cư", "Đại Hạ" diễn biến thành tên bộ lạc, rồi trở thành quốc hiệu.{{RefTag|name=徐俊}}
 
== Lịch sử ==
=== Khởi nguyên ===
Theo ghi chép trong văn hiến Trung Quốc cổ đại, trước khi Hạ hậu thị kiến lập, xuất hiện chiến tranh thường xuyên giữa bộ tộc Hạ và các bộ tộc khác xung quanh để tranh đoạt địa vị thủ lĩnh liên minh. Trong truyền thuyết cổ sử Trung Quốc, bộ tộc Hạ dần dần hưng khởi từ thời [[Chuyên Húc]] về sau. Có không ít văn hiến cổ đại truy nguyên Hạ tộc đến Chuyên Húc.{{NoteTag|1=Chuyên Húc là con của [[Xương Ý]]. Xương Ý lại là con của [[Hoàng Đế]]}} Trong "[[Sử ký Tư Mã Thiên|Sử ký]]-Hạ bản kỉ" và "[[kinh Lễ|Đại đái lễ ký]]-Đế hệ", nói rằng [[Cổn]] là con của Chuyên Húc. Tuy nhiên, cũng có một số văn hiến thì nói rằng Cổn là cháu năm đời của Chuyên Húc.{{NoteTag|name=颛顼五世孙|1=Có thuyết nói Cổn là cháu năm đời của Chuyên Húc. [[Hoàng Phủ Mật]] soạn "[[Đế vương thế kỷ]]" cùng với "[[Thế bản|Thế bản-Đế hệ]]" đều nhận định rằng Cổn là con của Chuyên Húc, song "[[Hán thư]]-Luật lịch chí" chép rằng "Đế hệ Chuyên Húc ngũ đại nhi sinh Cổn", "[[Sử ký sách ẩn]]" của [[Tư Mã Trinh]] nhận định rằng thuyết pháp của Hán thư khá khả tín.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《帝王世紀》|author=皇甫谧|language=Trung văn phồn thể}}}}{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《世本•帝系》|author=sử quan [[Tiên Tần]] soạn viết|language=Trung văn phồn thể}}}}{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《史記索隱》|author=司马贞|language=Trung văn phồn thể}}}}}} Các văn hiến này cho thấy rằng Hạ tộc rất có khả năng là một chi hậu duệ của Chuyên Húc. Có thuyết cho rằng Hạ tộc khởi nguyên tại khu vực dãy núi [[Mân Sơn]] trên thượng du [[sông Dân|Mân giang]] thuộc nơi giao giới giữa ba tỉnh [[Tứ Xuyên]]-[[Cam Túc]]-[[Thanh Hải (Trung Quốc)|Thanh Hải]] hiện nay. Sau đó, họ dần theo thượng du [[Hán Thủy]] cổ, qua trung hạ du [[sông Vị|Vị Thủy]], dời về phía đông đến lưu vực [[Sông Y|Y]]-[[sông Lạc (Nam)|Lạc]] tại nam bộ [[Sơn Tây (Trung Quốc)|Sơn Tây]]-tây bộ [[Hà Nam (Trung Quốc)|Hà Nam]].{{RefTag|name=夏源流史}}
 
=== Cổn-Vũ trị thủy ===
Thành viên Hạ tộc đầu tiên được văn hiến ghi chép là Cổn. Trong "[[Quốc ngữ (sách)|Quốc ngữ]]-Chu ngữ" có ghi rằng Cổn là thủ lĩnh của Hạ tộc, được phong tại Tung{{NoteTag|name=崇|1={{Tiêu âm|繁=崇|简=崇|拼音=Sōng|注音=ㄙㄨㄥ|同音字=嵩}}{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《汉语大字典》|author=汉语大字典编辑委员会|publisher=四川辞书出版社,湖北辞书出版社|date=1986年10月—1990年10月|language=Trung văn phồn thể}}}}, viết khác là Tung Sơn (崇山), Hữu Tung (有崇).{{RefTag|name=王玉哲}}}}, cho nên được gọi là "Tung bá Cổn". Sau này, Vũ kế thừa Cổn làm "Tung bá Vũ". Điều này thể hiện rằng Hạ tộc hoạt động ở phụ cận [[Tung Sơn]]{{NoteTag|1=Tung Sơn (嵩山) có tên cổ là “崇山”, cũng gọi là “嵩高”、“崇高”、“狄山”、“崧山”、“嵩高山”、“崇高山”.{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《炎黄源流史》|author=何光岳|publisher=江西教育出版社|date=1992年4月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5392-1157-1}}}}}}.{{RefTag|name=大百科|1={{Cite encyclopedia|author=安金槐|title=夏|encyclopedia=中国大百科全书|publisher=中国大百科全书出版社|year=1978年—1993年|language=Trung văn giản thể}}}} Đương thời, nước sông gây lụt, có không ít các bộ lạc hình thành liên minh bộ lạc nhằm chống lại nước lụt, Cổn được [[Tứ Nhạc]] cử làm lãnh đạo trị thủy, trải qua chín năm song cuối cùng thất bại. Nguyên nhân trị thủy thất bại có khả năng là do ông không giỏi trong việc đoàn kết tộc nhận cùng các bộ lạc khác. "[[Kinh Thư|Thượng thư]]-Ngiêu Điển" chép rằng [[Nghiêu]] ngay từ đầu tiên đã nhận định rằng Cổn trái mệnh hại tộc, hủy hại người thiện lương nên phản đối Cổn lãnh đạo trị thủy{{RefTag|name=尧典}}, điều này thể hiện rằng trong thời gian Cổn lãnh đạo trị thủy có không ít bộ lạc bất mãn đối với ông. Trong "Thượng thư-Hồng phạm" và "Quốc ngữ-Lỗ ngữ" lại đề cập thêm rằng "Cổn chướng hồng thủy", cho thấy phương pháp trị thủy của Cổn chủ yếu là dùng đất, gỗ ngăn trở để chặn nước lụt, có thể đây cũng là một nguyên nhân của việc Cổn trị thủy chín năm thất bại.{{RefTag|1=《尚书•洪范》、《国语•鲁语》.}} Sau khi trị thủy thất bại, Cổn bị giết tại Vũ Sơn nằm ven biển [[Hoàng Hải]].{{NoteTag|1=có thuyết nói rằng bị lưu đày ở Vũ Sơn, không lâu sau thì mất.{{RefTag|name=夏源流史}}}}
 
[[FileTập tin:大禹治水圖.png|thumb|180px|left|Tranh mô tả Đại Vũ trị thủy, tay cầm cày<br />(bản khắc đá thời Đông Hán Vũ Lương từ tại huyện [[Gia Tường]], Sơn Đông</center>]]
 
Vũ là con của Cổn, sau khi Cổn mất, Vũ thụ mệnh của Thuấn làm công tác trị thủy. Vũ cải tiến phương pháp trị thủy của phụ thân, nạo vét dòng sông, đoàn kết tộc nhân các bộ lạc, cuối cùng chế ngự được nước lụt. "Sử ký-Hạ bản kỉ" có chép rằng khi Vũ trị thủy "lao thân tiêu tư, 13 năm sống ở ngoài, qua cửa nhà không dám vào", tinh thần khắc khổ này được hậu thế truyền tụng, trong quá trình trị thủy có khả năng cũng đã xúc tiến đoàn kết giữa tộc nhân các bộ lạc. "[[Mạnh Tử (sách)|Mạnh tử]]-Đằng Văn công" đề cập đến phương pháp trị thủy của Vũ: "khai thông chín sông, đào thông [[sông Tể|Tể]], Tháp ra [[Hoàng Hải|Chư Hải]], khơi [[sông Nhữ|Nhữ]], [[Hán Thủy|Hán]]; tháo nước [[sông Hoài|Hoài]], [[Tứ Thủy (sông)|Tứ]] vào [[Trường Giang|Giang]]{{RefTag|name=滕文公上}}" Vũ cũng đề xướng nông nghiệp, nhấn mạnh "tự thân trồng trọt mà có thiên hạ{{RefTag|name=宪问|1=《论语•宪问》.}}". [[Hàn Phi Tử (sách)|Hàn Phi Tử]]-Ngũ đố" khen ngợi Vũ "thân cầm cày xẻng mà lãnh đạo dân, đùi và cẳng chân không mọc được lông, nhọc nhằn của nô lệ cũng không bằng của ông"{{RefTag|1=《[[韩非子]]•五蠹第四十九》.}}.
 
Do Vũ có công trị thủy và xúc tiến sản xuất nông nghiệp, thế lực của bộ tộc Hạ tăng cường. Sau đó, [[Thuấn]] cũng phái Vũ đi thảo phạt [[Tam Miêu]]. Vũ nhiều lần đánh bại Tam Miêu, xua đuổi Tam Miêu đến lưu vực [[Đan Giang]] và [[Hán Thủy]], củng cố quyền vua. Trong "[[Mặc Tử (sách)|Mặc Tử]]-Phi công" có viết về việc sau khi Vũ thắng Tam Miêu "biệt vật thượng hạ, khanh chế đại cực, nhi thần dân bất vi, thiên hạ nãi tĩnh", qua đó có thể thấy rằng sau khi Vũ trị thủy và thắng lợi trước Tam Miêu, bộ tộc Hạ trở thành thủ lĩnh liên minh bộ tộc. Thuấn đem đế vị [[thiện nhượng]] cho Vũ, Vũ tại Đồ Sơn{{NoteTag|name=涂山|1=Về vị trí của Đồ Sơn, có bốn thuyết{{RefTag|1={{Cite journal|title=“涂山再考”|author=梁刚|journal=《唐都学刊》|publisher=西安文理学院|location=中国陕西西安|year=2001年|month=10月|volume=卷十七(专辑二)|pages=第171—173页|language=Trung văn giản thể}}}}, theo tương truyền tức là Đồ Sơn trong địa phận huyện [[Hoài Viễn]] thuộc tỉnh An Huy hiện nay{{RefTag|1=《左传•哀公七年》杜预注文、《汉书•地理志》、《帝王 TCN》、《地理通释•十道山川考》、《大清一统志》.}}, một thuyết khác nói rằng là Tam Đồ Sơn thuộc địa phận huyện [[Tung]] thuộc tỉnh Hà Nam hiện nay{{RefTag|1=《逸周书•度邑》、《读史方舆纪要》、《[[水经注]]•卷十五•伊水》.}}{{RefTag|name=中国交通史|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国交通史》|author=白寿彝|publisher=上海书店|year=1937年|pages=第4—5页|language=Trung văn phồn thể}}}}, thuyết thứ ba thì nói rằng là Dư Sơn ở phía bắc khu [[Tiêu Sơn, Hàng Châu|Tiêu Sơn]] của [[Hàng Châu]], [[Chiết Giang]]{{RefTag|1=《越绝书外传记•越地传》、《[[吳越春秋]]》.}}{{RefTag|name=朱元桂|1={{Cite journal|title=“会稽涂山考”|author=朱元桂|journal=《浙江学刊》|publisher=浙江省社会科学院|location=中国浙江杭州|year=1995年|issue=第4期、总第93期|pages=第33—35页|language=Trung văn giản thể}}}}, thuyết thứ 4 thì cho là Đồ Sơn trong địa phận [[Trùng Khánh]].{{RefTag|1=《[[华阳国志]]•巴志》、《续后汉书•郡国志》刘昭注文、《水经注•卷三十三•江水》.}}}} triệu tập hội minh bộ lạc, một lần nữa chinh thảo Tam Miêu.{{NoteTag|1=Đương thời, các bộ lạc tại Trung Nguyên và Tam Miêu đấu tranh liên miên.}} Trong [[Tả truyện]] có chép "người vạn quốc đem theo ngọc lụa" tham gia Đồ Sơn hội minh.{{RefTag|1=《左传•哀公七年》.}}, có thể thấy khả năng hiệu triệu của bộ lạc Hạ{{RefTag|name=晁福林}}. Có một lần tại Cối Kê{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=會稽|简=会稽|拼音=Kuàijī|注音=ㄎㄨㄞˋ ㄐㄧ|同音字=快机}}, một thuyết dựa theo âm đọc tiếng Ngô bản địa mà cho là Khoái Cơ {{Tiêu âm|拼音=Guìjī|注音=ㄍㄨㄟˋ ㄐㄧ|同音字=桂机}}, có ý là "tập hợp".}}{{NoteTag|1=Tương truyền nay là phụ cận [[Thiệu Hưng]] thuộc tỉnh [[Chiết Giang]].{{RefTag|name=朱元桂}}}} tổ chức hội minh bộ lạc, thủ lĩnh [[Phòng Phong|Phòng Phong thị]] đến muộn nên bị Vũ xử tử. Trong văn hiến cổ còn viết về việc Vũ căn cứ vào đường đi xa gần của các bộ lạc chư hầu mà phân biệt nạp cống nhiều hay ít, có thể thấy bộ tộc Hạ khống chế về mặt kinh tế của các bộ lạc xung quanh. Vũ từng tiến cử thủ lĩnh họ Yển là [[Cao Dao]] có thanh thế ở phía đông làm người kế thừa, thể hiện tôn trọng truyền thống thiện nhượng.{{RefTag|name=大百科}} Tuy nhiên, chưa đến khi thiện nhượng thì Cao Dao lại mất trước Vũ. Vũ lại mệnh thủ lĩnh [[Đông Di]] là [[Bá Ích|Ích]]{{NoteTag|1=còn viết là “伯益”, Đại Phí “大费”, Bá Ế “伯翳”, Bách Ế “柏翳”. Có thuyết nói là con của Cao Dao.}} làm người kế thừa, tuy nhiên có rất nhiều bộ lạc không ủng hộ việc này, ngược lại họ ủng hộ con của Vũ là [[Hạ Khải|Khải]]. {{NoteTag|1=Không theo Ích mà theo Khải (不归益而归启.){{RefTag|1=《孟子•万章》.}}}}
 
=== Gia thiên hạ ===
[[FileTập tin:夏王启.png|thumb|180px|right|<center>[[Hạ Khải|Hạ vương Khải]]</center>]]
 
Sau khi Vũ mất, Ích không có được quyền vị, ngược lại Khải được dân chúng ủng hộ nên đoạt được quyền vị. Ghi chép về giai đoạn lịch sử này không giống nhau. Theo [[Trúc thư kỉ niên]] cổ bản, sau khi Ích tức vị, Khải giết Ích mà đoạt lấy quân vị.{{NoteTag|1=Ích vu Khải vị, Khải sát chi (益于启位,启杀之.){{RefTag|1=《晋书•束皙传》dẫn từ《竹書紀年》.}}}} Lại có thuyết nói sau khi Ích kế vị, có một số bộ tộc không thần phục Ích mà lại ủng hộ Khải, họ triển khai chiến tranh với bộ tộc của Ích, cuối cùng Khải thắng và đoạt được quyền vị. Sau đó, Ích suất lĩnh liên minh Đông Di thảo phạt Khải. Trải qua mấy năm đấu tranh, Khải xác lập địa vị thủ lĩnh trong liên minh bộ tộc.{{NoteTag|1=Khải dữ hữu đảng công Ích nhi đoạt thiên hạ (“启与友党攻益而夺之天下。”){{RefTag|1=《韩非子•外储说右下》.}}}} Văn hiến [[Tiên Tần]] ghi chép về sự việc này cùng cho là "công thiên hạ" biến thành "gia thiên hạ", tức thiên hạ là của chung biến thành thiên hạ của một nhà, khu vực Trung Nguyên từ đây xuất hiện khái niệm "quốc gia"{{NoteTag|1=tức "gia quốc", nghĩa là thiên hạ nằm trong quyền sở hữu của một nhà.}}.{{RefTag|name=王玉哲|1={{Citechú thích booksách|title=《[[中国断代史系列]]—中华远古史》|author=王玉哲|publisher=上海人民出版社|date=2000年7月|isbn=7-208-03283-1|language=Trung văn giản thể}}}} Không ít học gia lịch sử nhận định đây là khởi thủy của triều Hạ-vương triều thế tập đầu tiên của Trung Quốc.{{RefTag|name=晁福林}} Sau đó, không ít bộ tộc theo khuynh hướng thiện nhượng truyền thống nghi vấn về quyền vị của Khải. [[Hữu Hỗ|Hữu Hỗ thị]] vốn ở vùng ngoài kinh đô của Khải,{{NoteTag|name=有扈氏与甘|1=Không rõ vị trí của Hữu Hỗ thị và "Cam", việc này từ cổ không được nói rõ ràng. Quan điểm truyền thống cho rằng đất Hỗ tại khu vực bình nguyên [[Quan Trung]] của tỉnh Thiểm Tây ngày nay, thậm chí còn đề xuất cụ thể hơn là [[Hộ (huyện)|huyện Hộ]]{{NoteTag|1=户县, tên cũ là “鄠县”.{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=鄠|简=鄠|拼音=Hù|注音=ㄏㄨˋ|同音字=户}}。}}}} của Tây An ngày nay, đồng thời nói "Cam" nằm tại Nam Giao tại đó{{RefTag|name=史记地名考}}. Trong "Tả truyện", "Hỗ" (扈) và "Cố" (雇) có thể dùng thay cho nhau, "Cố" thấy trong giáp cốt bốc từ [[Ân Khư]] thời vãn Thương tại [[An Dương (địa cấp thị)|An Dương]] của Hà Nam, nằm không xa bằng Thiểm Tây, với kinh đô của Khải là Dương Trạch (tương truyền nay thuộc [[Vũ Châu]], Hứa Xương) thì có cự ly vừa phải. [[Trận Cam|Trận chiến Cam]] diễn ra ngay lúc triều Hạ mới kiến lập, cả Hữu Hỗ thị và Hạ quân Khải đều chưa chuẩn bị đẩy đủ điều kiện cho việc tác chiến xa như vậy. Quan điểm khá thích hợp hiện nay cho rằng hai xứ "Hỗ" và "Cam" nằm ở xa kinh đô của Khải, Hỗ/Cố nằm tại khu vực [[Nguyên Dương, Tân Hương|Nguyên Dương]], [[Tân Hương]] ngày nay, còn "Cam" nằm tại tây nam [[Lạc Dương]] hiện nay.{{RefTag|1={{Cite journal|journal=《中国史研究》|title=《尚书•甘誓》校释译论|author=顾颉刚、刘起釪|year=1979年|issue=第1期|language=Trung văn giản thể}}}}}} trượng nghĩa khởi binh,{{NoteTag|1=Ghi chép sớm nhất đề cập đến chiến đấu giữa Hữu Hỗ thị và Hạ hậu thị thấy trong "Thượng thư-Cam thệ", tuy nhiên nội dung không chỉ rõ "Hạ vương" là vị nào. Trong các văn hiến sau này, nội dung trình bày bất nhất, hoặc là Vũ{{RefTag|1=《墨子•明鬼下》、《庄子•人世间》、《吕氏春秋•召类》、《说苑•政理》.}} hoặc là Khải{{RefTag|1=《逸周书•史记》、《尚书•书序》.}} Có khả năng cổ nhân viết nét chữ của "Cam thệ" và "Vũ thệ" giống nhau, hoặc có khả năng hai đời Vũ và Khải đều từng chinh thảo qua Hữu Hỗ thị.{{RefTag|name=中国法制通史|1={{Citechú thích booksách|title=《中国法制通史•夏商周》|volume=卷一|author=蒲坚|publisher=法律出版社|date=1999年1月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5036-2373-X}}}}}} suất lĩnh liên minh bộ tộc hướng đến thảo phạt kinh đô của Khải, cùng quân của Khải đại chiến tại Cam{{NoteTag|name=有扈氏与甘}} Trước khi chiến, Khải tuyên bố quyền vị của ông là "cung hành thiên", tức là theo ý trời. Điều này trở thành nguyên mẫu của [[thiên tử|thiên tử luận]] của triều Chu sau này. Khải nhận được sự tán đồng của dân chúng Trung Nguyên, do vậy chiếm tuyệt đại ưu thế về phương diện số người, cuối cùng đánh bại Hữu Hỗ thị, trừng phạt bằng cách giáng họ làm mục nô.{{NoteTag|1=“mục thụ”, nô lệ chăn nuôi gia súc.}}{{NoteTag|1=Hữu Hỗ mục thụ, vân hà nhi phùng (“有扈牧竖,云何而逢?”){{RefTag|name=天问|1={{Citechú thích booksách|title=《楚辞•天问》|author=屈原}}}}}} Đây là thắng lợi thứ hai đại diện cho việc quan niệm xã hội chủ lưu của khu vực Trung Nguyên đi từ chế độ thiện nhượng nguyên thủy chuyển hướng sang chế độ thế tập.{{RefTag|name=王玉哲}}
 
Thị tộc Hạ có nguyên mang họ (tính) Tự, song từ thời Khải trở đi chuyển sang dùng quốc danh "Hạ" làm họ. Đồng thời, Khải không tiếp tục sử dụng xưng hiệu "bá" mà đổi sang dùng "hậu", tức "Hạ hậu Khải".{{NoteTag|1=Trong văn hiến thời kỳ từ Thượng Cổ đến [[nhà Tần|Tần]]-[[nhà Hán|Hán]], khi truy thuật về quân chủ Hạ-Thương thì thường gọi là "hậu". Để gọi thay cho "Hạ hậu thị", hiện có "Hạ triều", và ít thấy hơn là "Hữu Hạ thị"{{NoteTag|1=tức "Hạ thị". Thời kỳ Thượng Cổ, nhân danh, thị danh, tính danh, hay tộc danh phần nhiều là từ đơn, nhưng hậu nhân đổi sang tập quán tên hai từ, do vậy phía trước thêm chữ "Hữu" làm trợ từ, chữ "Hữu" hoàn toàn không có ý nghĩa thực tế.{{RefTag|name=古代汉语词典|1={{Citechú bookthích sách|title=《古代汉语词典》|author=《古代汉语词典》编写组|publisher=商务印书馆|date=2003年10月|isbn=7-100-01549-9|language=Trung văn giản thể}}}}}} Đây là những tôn hiệu thị tộc cải biến theo hướng tăng trung tính{{NoteTag|1=Ngoài ra, người thời Chu sùng thượng triều Hạ, cho rằng có duyên với Hạ, tự xưng "Hữu Hạ", hoàn toàn không phải là gọi vua Hạ.}}. [[Dương Khoan]] nhận định hai chữ "Hạ hậu" trong "Hạ hậu thị" thực tế là một liên từ, do vậy không thể xuất hiện tình huống "Hữu Hạ thị" này. Cũng do vào thời Thượng Cổ, chữ "Hạ" và chữ "Hạ" (下, nghĩa là dưới) đồng âm{{NoteTag|1=hai chữ “夏” trong tiếng Hán thượng cổ "Hồ nhã thiết, cổ âm tại ngũ bộ"{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《[[说文解字注]]》|author=清•[[段玉裁]]|year=1815年|language=Trung văn phồn thể}}}}, ước đoán đọc là *{{IPA|ha}}.{{RefTag|name=楊寬}}}}, có hoài nghi rằng "夏后" và "下后" tương đồng, "Hạ hậu" dưới mặt đất đối ứng với "Thượng đế" trên trời{{RefTag|name=楊寬}}. Trong bốc từ giáp cốt văn, chữ "hậu"([[FileTập tin:后.png|25px|后]])là ngoa khắc của chữ "cư/居" ([[FileTập tin:居2.png|20px]]){{NoteTag|1="Cư" thời Thượng Cổ có hai chữ: ([[FileTập tin:居2.png|20px]]) hàm nghĩa là vỗ về nuôi nấng, sinh sản, đồng nghĩa với "dục" (毓). thời Trung Cổ nghĩa là nuôi dưỡng, để dành (như trong 《汉书•张汤传》:“居物致富”); ([[FileTập tin:居.png|15px|]]) hãm nghĩ là ngồi, cư trú, dừng lại, chiếm hữu, ý nghĩa giống như hiện nay.{{RefTag|name=王玉哲}}}}, chữ "cư" lại là giản hóa của chữ "dục/毓" ([[FileTập tin:毓.png|20px]]), "dục" bao hàm nghĩa sinh sản nuôi dưỡng, dùng cách xưng hô "hậu" đối với quân chủ là dấu tích còn lại của xã hội mẫu hệ thời viễn cổ. Kỳ thực, do đến nay vẫn chưa phát hiện được văn tự của người triều Hạ, các xưng hô thực tế đối với quân chủ Hạ tộc tạm vẫn không có cách nào khảo chứng.{{RefTag|name=王玉哲}}}}{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《诗地理考》|author=王應麟}}}} Khải có tài ca hát, giỏi múa, thường cử hành thịnh yến. Trong đó, một lần lớn nhất là tại Quân Đài{{NoteTag|1=còn viết khác là "Hạ đài", "đại đài".}}{{NoteTag|name=古钧台|1=tương truyền nay thuộc phía nam [[Vũ Châu]] của Hà Nam{{RefTag|name=史记地名考|1={{Citechú bookthích sách|title=《史记地名考》|author=錢穆|publisher=商务印书馆|date=2001年7月|isbn=7-100-03240-7|language=Trung văn phồn thể}}}}}} ấy là Quân Đài chi hưởng, còn tại "Thiên Mục chi dã"{{NoteTag|1=Không rõ vị trí cụ thể hiện nay.}} biểu diễn ca vũ. "[[Sơn Hải kinh]]-Hải ngoại tây kinh" chép rằng Khải khi múa "tay trái giữ ế{{NoteTag|1=Cái lọng xe của vua kết từ lông vũ.}}, tay phải cầm vòng, đeo ngọc hoàng{{NoteTag|1=đồ trang sức hình nửa tròn làm từ ngọc.}}".{{RefTag|1=《[[山海经]]•海外西经》.}} Văn hiến nhạc vũ cổ xưa của Trung Quốc như "Cửu biện", "Cửu ca" và "Cửu thiều"{{NoteTag|1=viết là 九招 hay 九韶.}} đều nhận Khải là tác giả gốc. Trong thời gian Khải thống trị, con là Vũ Quan{{NoteTag|1="[[Mặc Tử (sách)|Mặc Tử]]" viết rằng "Vũ Quan" nghi là tên sách, không phải tên người. "Sử ký-Hạ bản kỉ" chép rằng Khải có "ngũ tử", thời [[Thái Khang]] mất nước tại bờ bắc Lạc Hà họ theo trưởng huynh Thái Khang, sáng tác "Ngũ tử chi ca" để biểu thị chí hối cải. Người thời Hán lại đặt cho "Ngũ tử" hiệu "Ngũ Quan"{{NoteTag|1=“昆弟五人号五观。”{{RefTag|《汉书•古今人表》.}}}}, nghi là kết quả của việc hậu nhân lấy liên hệ giữa "Vũ Quan" với "Ngũ Quan", "Ngũ tử" trong "Mặc Tử".{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《古文尚書撰異》|author=清•段玉裁|volume=卷七|language=Trung văn phồn thể}}}}}} thường làm loạn. "[[Hàn Phi Tử]]-Thuyết nghi" chép rằng người này "hại nước hại dân bại pháp", cuối cùng bị giết.{{RefTag|1=《[[韩非子]]•说疑》.}}
 
=== Thái Khang thất quốc ===
Sau khi Hạ Khải mất, con là [[Thái Khang]] kế thừa hậu vị, Thái Khang chỉ để tâm vào du ngoạn, không lo chính sự.{{RefTag|1=裴骃,《史记集解》.}} Trong thời gian Thái Khang tại vị, quyền uy của bộ tộc Hạ suy yếu, các bộ lạc Đông Di là [[Thái Hạo]] và [[Thiếu Hạo]] thừa cơ tây tiến. Thủ lĩnh [[Hậu Nghệ|Nghệ]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=羿|简=羿|拼音=Yì|注音=ㄧˋ|同音字=易}}。}}{{NoteTag|name=后羿|1=nhân danh là "Nghệ", tôn xưng là "Hậu Nghệ", chữ "Hậu" này đối xứng với "Hậu" trong "Hạ hậu", là xưng hiệu tôn quý của thủ lĩnh liên minh bộ lạc. Khác với Hậu Nghệ trong thần thoại thời kỳ Đường [[Nghiêu]]}} của tộc Đông Di là người giỏi bắn cung, ông suất quân từ đất Từ{{NoteTag|name=鉏|1={{Tiêu âm|繁=鉏|简=[[FileTập tin:鉏.png|15px|钅且]]|拼音=Xú|注音=ㄒㄩˊ|同音字 =徐}} của Đông Di dời đến đất Cùng Thạch{{NoteTag|1=tương truyền nay ở phía nam của [[Lạc Dương]], Hà Nam.}} của Hạ hậu thị, thông hôn với người Hạ bản địa, hình thành nên [[Hữu Cùng|Hữu Cùng thị]]{{NoteTag|1=còn viết là Hữu Khung.}} Dưới sự ủng hộ của dân Hạ, Nghệ đoạt lấy Hạ chính,{{NoteTag|1=“因夏民以代夏政。”{{RefTag|name=襄公四年}}}} Thái Khang sau đó chạy đến [[Châm Tầm (đô thành)|Châm Tầm]]{{NoteTag|name=斟鄩|1={{Tiêu âm|繁=斟鄩|简=斟[[FileTập tin:鄩.png|15px|寻阝]]、斟寻|拼音=Zhēnxún|注音=ㄓㄣ ㄒㄩㄣˊ|同音字 =真寻}}。}} thuộc [[Châm Tầm (nước)|Châm Tầm thị]].
 
Sau khi Nghệ đoạt được quyền vị, ông không xưng vương mà lập em của Thái Khang là [[Trung Khang]] làm vương, song quốc sự trên thực tế đều do Nghệ trị lý. Việc này khiến cho không ít bộ lạc bất mãn, trong đó Hòa thị và Hi thị công khai phản đối, họ đồng thời cũng có nhiệm vụ chủ trì hoạt động quan sát các hiện tượng thiên nhiên. Nghệ nói họ phế thời loạn nhật, phái Dận{{NoteTag|1=còn viết là "Dận hầu"}} suất binh thảo phạt hai thị tộc Hi và Hòa, trước khi chiến cử hành lời thệ sư "Dận chinh"{{NoteTag|1=còn lại trong "Thượng thư-Hạ thư-Dận chinh", nguyên văn đã thất truyền.}}, giành chiến thắng trong trận chiến.{{RefTag|name=夏本纪|1={{Citechú bookthích sách|title=《史记•夏本纪》|author=司馬遷}}}}}}。
 
Sau khi Trung Khang mất, con là [[Tướng (vua nhà Hạ)|Tướng]] kế vị. Sau đó, Tướng chạy trốn hướng về hai thị tộc [[Châm Tầm (nước)|Châm Tầm]]{{NoteTag|name=斟鄩}}, [[Châm Quán]]{{NoteTag|1=gọi chung là "nhị Châm".}} Từ đó, Nghệ một mình đảm đương vương vị. Nghệ giỏi săn bắn, không thạo trị lý, sau khi đoạt quyền thì cũng giống như Thái Khang khi trước, ham săn bắn mà bỏ bê quốc sự. Ông loại bỏ các trung thần như Vũ La, Bá Khốn, Long Ngữ, trọng dụng [[Hàn Trác]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=寒浞|简=寒浞|拼音=Hánzhuó|注音=ㄏㄢˊ ㄓㄨㄛˊ|同音字=含浊}}。}}. Hàn Trác vào thời niên thiếu do bịa đặt dối gạt mọi người nên bị quân chủ của [[Bá Minh|Bá Minh thị]] đuổi đi, sau được thủ lĩnh Hữu Cùng thị là Hậu Nghệ thu dưỡng, trở thành một người của Hữu Cùng thị, được trọng dụng{{NoteTag|1=có thuyết ghi rằng Hán Trác được phong làm [[tể tướng|tướng]]{{RefTag|name=中国早期国家性质}}}} Thế lực của Hàn Trác ngày càng lớn mạnh, về sau thừa cơ hội Nghệ ra ngoài săn bắn, Hàn Trác giết Nghệ và gia nhân, đoạt quyền lực và thê của Nghệ, sinh hai con trai là [[Hàn Ế|Ế]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=豷|简=豷|拼音=Yì|注音=ㄧˋ|同音字=易}}。}} và [[Hàn Kiêu|Kiêu]]{{NoteTag|name=浇|1=Kiêu còn có tên là Ngạo}} Hàn Trác đem đất [[Qua (nước) |Qua]]{{NoteTag|1=tại khu vực trung bộ Hà Nam.}} phong cấp cho Ế, đem đất [[Quá (nước)|Quá]]{{NoteTag|1=tương truyền nay ở tây bắc [[Lai Châu, Yên Đài|Lai Châu]] của Sơn Đông.}} phong cấp cho Kiêu. Kiêu nhận mệnh của phụ thân, suất binh trước sau diệt Châm Quán thị và Châm Tầm thị vốn thân Hạ, giết Tướng đang ẩn náu tại Châm Tầm. Thê tử{{NoteTag|1=có thuyết cho là phi tử,}} của Tướng là [[Hậu Hôn|Hôn]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=緡|简=缗|拼音=Hūn|注音=ㄏㄨㄣ|同音字=婚}}。}}{{NoteTag|1=còn viết là “Hậu Hôn”.}} đương thời có mang con của Tướng, bà theo lỗ tường đào tẩu đến quê nhà mẫu thân là [[Hữu Nhưng|Hữu Nhưng thị]]{{NoteTag|1=còn viết là "Hữu Nhâm thị", vào thời Thượng Cổ, chữ Nhâm “任” và chữ Nhưng “仍” có thể thay thế nhau.}}{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc huyện [[Kim Hương]] của Sơn Đông{{RefTag|name=大百科}}{{RefTag|name=史记地名考}}. Thuyết khác cho là nay thuộc huyện [[Nhâm]] của [[Hà Bắc (Trung Quốc)|Hà Bắc]].{{RefTag|name=王玉哲}}}} tị nạn. Không lâu sau, bà sinh hạ [[di phúc tử]] [[Thiếu Khang]]{{NoteTag|name=康}}
 
=== Thiếu Khang trung hưng ===
Dòng 58:
 
=== Thương Thang diệt Kiệt ===
[[FileTập tin:Xiajie.png|thumb|<center>Tranh mô tả [[Hạ Kiệt|Kiệt]] cầm [[kích (vũ khí)|kích]], ngồi lên hai nữ bộc.<br />(vẽ vào thời Hán, Vũ lương từ, Gia Tường, Sơn Đông)</center>]]
 
Khi Bất Giáng già yếu, nội thiện cho đệ là [[Hạ Quýnh|Quynh]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=扃|简=扃|拼音=Jiōng|注音=ㄐㄩㄥ}}。}}. Sau khi Quynh mất, con là [[Hạ Cần|Cần]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=廑|简=廑|拼音=Jǐn|注音=ㄐㄧㄣˇ|同音字=紧}}. Quốc ngữ Đài Loan :{{Tiêu âm|注音=ㄐㄧㄣˋ|拼音=Jìn|同音字=晉}}。}} kế vị. Sau khi kế vị không lâu, Cần bệnh mất, đường huynh là [[Khổng Giáp]]- con của Bất Giáng- kế vị. Khổng Giáp tiến hành cải biến truyền thống tế tự tổ tông trong Hạ lễ, bắt đầu tế tự Thiên Đế. "Sử ký-Hạ bản kỉ" thuật rằng Khổng Giáp "ham thích thuật quỷ thần, làm việc dâm loạn".{{NoteTag|1=“帝孔甲立,好方鬼神,事淫乱。夏后氏德衰,诸侯畔之。”{{RefTag|name=夏本纪}}}} Không ít phương quốc bộ lạc bắt đầu bất mãn đối với Hạ thất, song quan hệ giữa Hoa Hạ tộc và Đông Di tộc vẫn hữu hảo, có khả năng là do độ đồng hóa giữa hai tộc đã khá cao. Từ thời Khổng Giáp, Hạ hậu thị bắt đầu ngày càng suy lạc.{{NoteTag|1=“孔甲乱夏,四世而陨。”{{RefTag|name=周语|1=《国语·周语》.}}}} Khi Khổng Giáp mất, con là [[Hạ Cao|Cao]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=皋|简=皋|拼音=Gāo|注音=ㄍㄠ|同音字=高}}。}} kế vị. Khi Cao mất, con là [[Hạ Phát|Phát]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=發|简=发|拼音=Fā|注音=ㄈㄚ}}。}} kế vị. Trong giai đoạn này, quan hệ giữa phương quốc bộ lạc và Hạ thất xấu đi, tranh chấp trong nội bộ thị tộc mãnh liệt hơn. Từ thời Khổng Giáp qua Cao và Phát, đến Lý Quý (biệt danh [[Hạ Kiệt]]), nội loạn không ngừng.
 
Sau khi Phát mất, con là Lý Quý (Kiệt) kế vị. Kiệt là người giỏi võ, "Sử ký-Luật thư" chép rằng Kiệt "tay đánh [[chó rừng|sài lang]], chân truy tứ mã{{RefTag|1=《史记·律书》.}}" Trong thời gian Kiệt tại vị, quan hệ giữa Hạ thất và phương quốc bộ lạc đã bị phá vỡ, số bộ lạc cống nạp cho Hạ không ngừng giảm thiểu, Kiệt do vậy thường thảo phạt bộ lạc không quy phục. Trong văn hiến có ghi rằng Kiệt tham sắc, sau khi đánh bại mỗi bộ lạc thì tuyển chọn phi tử trong số các nữ giới. Hữu Thi thi{{NoteTag|1=còn viết là “Hữu Hỉ thị”.}} đề cập trong "Quốc ngữ-Tấn ngữ"{{NoteTag|1=“有施氏以妹喜女焉。”{{RefTag|1=《国语·晋语》.}}}}; Mân Sơn thị, Mạt Hỉ thị đề cập trong "Trúc thư kỷ niên" đều có kết cục như vậy. Trong đó, [[Muội Hỉ]] của Mạt Hỉ thị kết giao với [[Y Doãn]]{{NoteTag|1=“Hậu Kiệt phạt Mân Sơn, Mân Sơn dâng hai người con gái cho Kiệt, gọi là Uyển, Diễm. Kiệt nhận hai người con gái, không có con, khắc tên của họ vào ngọc Điều Hoa, điều là Uyển, Hoa là Diễm. Mà bỏ quên nguyên phi ở Lạc, gọi là Mạt Hỉ thị. Mạt Hỉ thị và Y Doãn kết giao, rồi do thám Hạ.”{{RefTag|name=竹書紀年}}}} Kiệt nhiều lần chinh phục chọc giận không ít bộ tộc khá có quyền uy. Hữu Mân thị{{NoteTag|name=有缗氏}}{{NoteTag|1=hậu duệ của [[Thiếu Hạo]].}} do không phục tùng Kiệt mà bị diệt. Bộ tộc Thương mang tính Tử, hoạt động tại khu vực nay là tây nam bộ tỉnh Sơn Đông, bắt đầu trở nên hưng vượng chính là trong thời loạn này của triều Hạ. Kiệt cũng nhân việc Thương không phục làm lý do để thảo phạt, đánh bại thủ lĩnh của Thương là [[Thành Thang|Thang]]. Thang bị cầm tù tại Hạ Đài{{NoteTag|1=còn viết là Quân Đài.}}{{NoteTag|name=古钧台}}, sau đó được phóng thích. Ngoài việc đề cập đến quan hệ đối ngoại xấu đi, trong các văn hiến còn đề cập đến việc Kiệt dùng người không thích hợp trong triều đình.
Dòng 67:
 
=== Hậu duệ ===
Sau khi Hạ diệt vong, thế lực còn lại chủ yếu lưu cư Trung Nguyên{{NoteTag|1=[[Phó Tư Niên]] căn cứ ghi chép trong "[[Tuân Tử (sách)|Tuân Tử]]·Nho hiệu thiên đệ bát" là "Quân tử cư Sở nhi Sở, cư Việt nhi Việt, cư Hạ nhi Hạ"{{RefTag|1=《荀子·儒效篇第八》.}}, đoán rằng hậu duệ Hạ tộc cho đến thời kỳ [[Chiến Quốc]] vẫn phần nhiều cư trú tại đất Dự Trung Nguyên.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“新获卜辞写本后记跋”|author=傅斯年|journal=《安阳发掘报告》|year=1930年|issue=第2期|language=Trung văn phồn thể}}}}}} song cũng có hai chi phân biệt thiên di hướng bắc và hướng nam. Kiệt đem theo không ít dân chúng Hạ tộc từ Lịch Sơn nam thiên đến Nam Sào, chính là chi phía nam. Chi phía bắc tiến vào cao nguyên Mông Cổ, cùng các tộc bản địa dung hợp, có người nhận định đấy chính là dân tộc được hậu nhân gọi là [[Hung Nô]]. "Sử ký-Hung Nô liệt truyện" có chép rằng "tiên tổ của Hung Nô cũng là hậu duệ của Hạ hậu thị, gọi là [[Thuần Duy]]{{NoteTag|1=có thuyết cho rằng Thuần Duy là tên con của Hạ Kiệt, không phải là gọi chung duệ tộc chi phía bắc}}{{RefTag|1=《史记·匈奴列传》.}}". "Quát địa phả" cho biết chi tiết hơn " con (Hạ Kiệt) là Huân Dục{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=獯鬻、獯粥|简=獯粥、獯鬻|拼音=Xūnyù|注音=ㄒㄩㄣ ㄩˋ|同音字=勋欲}}。}}{{NoteTag|1=còn viết là Hiểm Doãn, Nghiêm Doãn, Hiểm Duẫn.}} có thê là thê thiếp của Kiệt, tị cư ở Bắc Dã, di dời theo thú nuôi, Trung Quốc gọi là Hung Nô{{RefTag|1=《括地谱》.}}". Thương Thang phong một chi của Hạ thất mang họ Tự tại [[Kỷ (nước)|Kỷ quốc]] để phụng tự tông miếu tổ tiên{{RefTag|1=《列子釋文》.}}{{RefTag|1={{Cite journal|title=“由三代都邑论其民族文化”|author=丁山|journal=《历史语言研究所集刊》|year=1935年|issue=第5本|language=Trung văn phồn thể}}}}. "Sử ký-Trần Kỉ thế gia" ghi rằng hậu duệ Hạ tộc tại "Ân thời hoặc phong hoặc tuyệt"{{RefTag|1=《史记·陈杞世家》.}} Sau khi [[Chu Vũ Vương]] diệt Thương và trở thành vương, ông phong hậu duệ của Đại Vũ là [[Kỷ Đông Lâu công|Đông Lâu công]] tại đất Kỷ, tiếp tục quốc tộ Kỉ quốc, chủ quản việc tế tự đối với Vũ. Mạt kỳ [[Xuân Thu]], [[Khổng Tử]] do sùng thượng Hạ lễ nên còn đặc biệt đến Kỷ quốc phỏng vấn khảo sát{{RefTag|1=《论语·八佾第三》、《礼记·礼运》.}} Tại thôn Vũ Lăng ở Cối Kê Sơn thuộc Thiệu Hưng của Chiết Giang, đời sau họ Tự của Hạ Vũ đến nay vẫn giữ lăng của Vũ{{NoteTag|1=không rõ niên đại giữ lăng cụ thể. Bi đình của "Đại Vũ lăng" là do Thiệu Hưng tri phủ Nam Đại Cát mệnh Trương Minh Đạo thuật lại bia văn vào năm Gia Tĩnh thứ 20 (1541) thời Minh, đến năm 1979 thì được xây lại.{{RefTag|1={{Citechú thích web|url=http://www.shaoxing.gov.cn/index/sxgk/wwgj.htm|title=文物古迹|publisher=中国浙江绍兴县人民政府官方网站|language=Trung văn giản thể|accessdate=2011-08-24}}}}}}{{RefTag|1={{Citechú thích web|url=http://www.chinaculture.org/gb/cn_whyc/2006-10/19/content_87161.htm|title=大禹祭典|publisher=中华人民共和国文化部外联局中国文化网|accessdate=2010-12-05|language=Trung văn giản thể}}}} Quách Mạt Nhược, Hồ Hậu Tuyên, Trình Cảnh nhận định [[Thổ phương]] trong [[Giáp cốt văn]] chính là Hạ sau khi chiến bại.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“夏禹的问题”|author=郭沫若|journal=《中国古代社会研究》|year=1930年|pages=第351页|language=Trung văn phồn thể}}}}{{RefTag|name=殷商史|1={{Citechú thích booksách|title=《中国断代史系列—殷商史》|author=[[胡厚宣]]、[[胡振宇]]|publisher=上海人民出版社|date=2003年4月|pages=第41—52页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-208-04584-4}}}}{{RefTag|1={{Cite journal|title=“夏民族考”|author=程憬|journal=《大陆杂志》|year=1932年|volume=卷一|issue=第5、6期|language=Trung văn phồn thể}}}} Căn cứ ghi chép trên [[Bốc từ]], Thổ phương là một phương quốc lớn mạnh ở tây bắc của Ân{{NoteTag|1=khoảng lưu vực [[Sông Phần|Phần Hà]] trong địa phận Sơn Tây hiện nay.}}, là đối tượng mà [[Vũ Đinh]] và các vua Thương trước đó trường kỳ chinh thảo. Sau khi Vũ Đinh chinh phục Thổ phương, tại "Đường thổ" trong nội địa của Thổ phương cho kiến thiết nên thành ấp lớn là "Đường", khống chế nhân dân Thổ phương, về sau không lại thấy có ghi chép Thổ phương bạn biến.{{RefTag|name=殷商史}} Thời Chu sơ, [[Chu Thành Vương|Thành Vương]] phong quân chủ đầu tiên của [[Tấn (nước)|Tấn quốc]] là [[Đường Thúc Ngu]] ở nơi đó.{{RefTag|1=《左传·定公四年》.}}
 
== Phạm vi thế lực và phân chia hành chính ==
Triều Hạ tồn tại trong khoảng thời gian quá độ từ liên minh thành bang bộ lạc tới quốc gia phong kiến, do đó không có cương vực rõ ràng. Quan hệ giữa thị tộc Hạ và các thành bang bộ lạc khác khá giống với kiểu quan hệ giữa nước tông chủ và nước triều cống. Tuy nhiên, có một ít phương quốc được Hạ thất phân phong, giống như nước chư hầu. Do vậy, chỉ có thể lấy phạm vi thế lực để biểu thị lực ảnh hưởng của triều Hạ. 11 chi họ Tự của Hạ tộc và vương thất trung ương Hạ hậu thị về dòng máu có quan hệ tông pháp, về chính trị có quan hệ phân phong, về kinh tế có quan hệ cống phú, nói chung cấu thành phạm vi lãnh thổ lõi của vương triều Hạ.{{RefTag|name=郑杰祥|1={{Citechú bookthích sách|title=《新石器文化与夏代文明》|author=郑杰祥|publisher=江苏教育出版社|date=2005年4月|language=zh-cn|isbn=7-80643-915-3}}}} Hạ bắt đầu từ tây bộ Hà Nam và nam bộ Sơn Tây ở phía tây; phía đông đến nơi giao giới giữa ba tỉnh Hà Nam, Sơn Đông, Hà Bắc; phía nam đến bắc bộ tỉnh Hồ Bắc; phía bắc lên tới nam bộ tỉnh Hà Bắc. Khu vực này có trung tâm địa lý nay là dải Yển Sư, Đăng Phong, Tân Mật, Vũ Châu.{{RefTag|name=大百科}} Đương thời, thế lực của Hạ kéo dài ra nam bắc [[Hoàng Hà]], thậm chí là đến lưu vực [[Trường Giang]]. Vào tảo kỳ triều Hạ, Hạ tộc chủ yếu sinh hoạt tại vùng đất Hà Nội ở trung nam bộ Sơn Tây, men theo [[Sông Phần|Phần Thủy]], Hà Thủy dời đến phía đông nam, vãn kỳ đến lưu vực Y-Hà ở trung bộ Hà Nam. "Quốc ngữ-Chu ngữ thượng" viết rằng "xưa Y Lạc khô cạn nên Hạ mất{{RefTag|1=《国语•周语上》.}}", có thể thấy sông Y-Lạc mang tính trọng yếu đối với vùng thủ đô thời vãn kỳ của Hạ.{{RefTag|name=王玉哲}}
 
=== Chín châu trong truyền thuyết ===
[[FileTập tin:禹贡九州图.jpg|thumb|300px|<center>Vũ cống cửu châu đồ (hướng phía trên là hướng tây)<br />(làm vào thời Nam Tống)</center>]]
Về phân chia hành chính, triều Hạ chọn thi hành cửu châu chế. Căn cứ theo ghi chép trong "Thượng Thư-Vũ cống", sau khi Đại Vũ trị thủy thành công, đem Trung Thổ phân thành chín châu là Kí, Duyện, Thanh, Từ, Dự, Dương, Kinh, Lương, Ung{{NoteTag|name=九州九等|1=<br />冀州:厥賦惟上上錯,厥田惟中中。恒衛旣從,大陸旣作。島夷皮服。<br />兗州:厥田惟中下,厥賦貞,作十有三載乃同。厥貢漆絲,厥篚織文。<br />青州:厥田惟上下,厥賦中上。厥貢鹽、絺,海物惟錯,岱畎絲、枲、鉛、松、怪石。萊夷作牧,厥篚檿絲。<br />徐州:厥田惟上中,厥賦中中。厥貢惟土五色,羽畎夏翟,嶧陽孤桐,泗濱浮磬,淮夷蠙珠暨魚。厥篚玄纖縞。<br />[[扬州 (古代)|揚州]]:厥田惟下下,厥賦下上,上錯。厥貢惟金三品,瑤、琨、筿簜、齒、革、羽、毛惟木。島夷卉服,厥篚織貝;厥包橘、柚,錫貢。<br />荊州:厥田惟下中,厥賦上下。厥貢羽、毛、齒、革,惟金三品,杶、榦、栝、柏,礪、砥、砮、丹惟稇、簵、楛。三邦厎貢厥名,包匭菁茅;厥篚玄纁璣組。九江納錫大龜。<br />豫州:厥田惟中上,厥賦錯上中。厥貢漆、枲、絺、紵、厥篚纖纊,錫貢磬錯。<br />梁州:厥田惟下上,厥賦下中三錯。厥貢璆、鐵、銀、鏤、砮、磬、熊、羆、狐、貍、織皮。<br />雍州:厥田惟上上,厥賦中下。厥貢惟球、琳、瑯玕。織皮:昆侖、析支、渠搜。{{RefTag|name=禹贡|1=《尚书•夏书•禹貢》.{{NoteTag|1=《禹贡》一篇讲述大禹治水成功后治理九州的情景,虽然托名为大禹之为事,实则是后人根据夏时期情况结合东周战国时期的情况加工美化的记载。{{RefTag|name=晁福林}}{{RefTag|name=周振鹤}}}}}}}}, và chiếm lấy đồ kim thuộc và thạch khoáng từ chín châu{{NoteTag|1=có thuyết nói rằng chín châu gọi chung chín vị thủ lĩnh "Cửu Mục" cống lên kim thạch}}, đúc ra [[cửu đỉnh]] để tượng trưng cho quyền lợi quốc gia, do vậy "Cửu Châu" trở thành danh từ đại diện cho quốc gia Trung Quốc, và ý "định đỉnh" là kiến lập chính quyền.{{NoteTag|1="Mặc Tử-Canh trú" ghi: "ngày xưa, Hạ hậu [[Hạ Khải|Khai]]{{NoteTag|name=启名开}} sai [[Phi Liêm]] đi đổi lấy kim loại tại Sơn Xuyên, làm đồ gốm và đúc tại Côn Ngô,...cửu đỉnh đã hoàn thành, dời đến [[Tam Đại (lịch sử Trung Quốc)|Tam Quốc]].{{RefTag|name=耕柱|1=《墨子•耕柱》.}}”,viết rằng Khải đúc đỉnh tại Côn Ngô, và sau đó Hạ truyền Ân, Ân truyền Chu.}}{{RefTag|name=中国法制通史}} Theo "Vũ cống", chín châu phân chia như sau{{RefTag|name=中国商业史|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国商业史》|author=王孝通|publisher=上海书店|year=1936年|pages=第14页|language=Trung văn phồn thể}}}}:
 
#Ký châu (冀州), giáp bên phải Kiệt Thạch đến [[Hoàng Hà|Hà]], ba mặt cách Hà, là nơi đường cống nạp của các châu đều đi qua. Nay thuộc các tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc và tây bộ [[Liêu Ninh]].
Dòng 86:
*Ung châu (雍州), thuận theo Tích Thạch, đến Long Môn Tây Hà, hội ở Vị, Nhuế. Nay là Thiểm Tây, Cam Túc, Ninh Hạ, Thanh Hải.
 
Cửu châu mượn danh từ công việc của Đại Vũ, kỳ thực là do người thời Chiến Quốc ước đoán phân chia Thiên hạ. Quốc gia thời Hạ nằm ở giai đoạn manh nha, bức xạ chính trị nhìn chung không vượt khỏi thành ấp nội địa, ở ngoài kinh kì thì thông qua phong bang kiến quốc theo thị tộc chế cùng với thông hôn kết minh mà đạt thành quan hệ. Do lãnh thổ nhỏ hẹp, chính quyền trung ương đơn nhất không cần thiết hay không có năng lực phân chia khu vực hành chính.{{RefTag|name=周振鹤|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国历代行政区划的变迁》|author=周振鹤|publisher=商务印书馆|date=1998年11月|location=中国北京|language=Trung văn giản thể|isbn=7-100-02424-2}}}}
 
=== Đô thành ===
Thời kỳ viễn cổ, chưa có khái niệm rõ ràng về đô ấp, xã hội trong giai đoạn nửa chăn nuôi đi săn, nửa trồng trọt định cư, dân của bộ tộc Hạ theo thủ lĩnh và tráng đinh trong tộc thiên di. Sau khi tài nguyên đương địa đã tận, họ liền thiên di đến đất khác, không thường trú tại một nơi. Vùng đất Hạ hậu cư trú gọi là "Đại Ấp" hoặc "Hạ Ấp", đó là khái niệm nguyên thủy của thủ đô quốc gia.{{RefTag|name=晁福林}} Văn hiến ghi chép thủ lĩnh Hạ tộc trước sau định cư tại 17 xứ: Đại Hạ, Hạ Khư {{NoteTag|1=còn viết là “夏虛”, vào thời thượng cổ, hai chữ “虛” và “墟” có thể thay cho nhau.}} Cao Mật{{NoteTag|name=密都|1=“Cao Mật” cũng viết là “Mật Đô”.}} Dương Thành, Dương Trạch, Tấn Dương, Bình Dương, Ký{{NoteTag|1=còn viết là "Kí châu".}}, An Ấp, Hạ Ấp, Châm Tầm, Đế Khâu{{NoteTag|name=商丘}}, Luân{{NoteTag|name=纶邑}}, Nguyên, Lão Khâu, Tây Hà, Hà Nam.{{NoteTag|1=Ngoài ra, còn có "Mục Thiên Tử truyện" chép rằng đến Hạ hậu Khải cư trú tại "Hoàng đài chi khâu", trên gò nhìn "Hoàng đài"{{RefTag|1=《穆天子傳•卷五》.}}, hai đất này hiện không thể khảo chứng. [[Sử Niệm Hải]] nhận định ứng với lưu vực Cổ Vị Thủy giữa Trịnh Châu và [[Tân Mật|Mật huyện]] tại Hà Nam{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国古都和文化》|author=史念海||publisher=中华书局|year=1998年|language=Trung văn giản thể|isbn=7-101-01585-9}}}}. Có thuyết cho rằng là di chỉ Tân Trại ven sông Kịp thuộc thôn Tân Trại, trấn Lưu Trại ở đông nam huyện [[Tân Mật]], Hà Nam.{{RefTag|name=张莉|1={{Cite journal|title=“夏代早期都城研究”|author=张莉|journal=《二里头遗址与二里头文化研究》|publisher=科学出版社|location=中国北京|year=2006年|month=12月|pages=第433—435页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-03-017833-5}}}}}} Vị trí cụ thể của các đô ấp này đều dĩ nhiên không có cách nào khảo chứng, trong đó một số có khả năng là biệt danh của cùng một thành ấp.{{RefTag|name=晁福林}}{{RefTag|name=王玉哲}}
 
{|class="wikitable" style="margin:auto;"
Dòng 100:
| Tung{{NoteTag|name=崇}} || tương truyền nay thuộc huyện [[Tung (huyện)|Tung]], Hà Nam.{{RefTag|name=史记地名考}}
|-
| rowspan=6 | Vũ || Cao Mật{{NoteTag|name=密都}} || tương truyền nay nằm trong địa phận huyện Tân An, Hà Nam{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=中国古史的传说时代|author=徐旭生|publisher=广西师范大学出版社|year=2003年|language=Trung văn giản thể|isbn=9787563342273}}}}
|-
| Dương Thành{{NoteTag|name=阳城阳翟|1=có thuyết cho rằng Dương Thành tức là Dương Trạch.}} || tương truyền nay thuộc trấn Cáo Thành, [[Đăng Phong]], Hà Nam{{RefTag|name=简明中国历史地图集|1={{Citechú bookthích sách|title=《简明中国历史地图集》|author=谭其骧|publisher=中国地图出版社|date=1991年10月1日|isbn=7503110155|language=Trung văn giản thể}}}}
|-
| Dương Trạch{{NoteTag|name=阳城阳翟}} || tương truyền nay thuộc [[Vũ Châu]], [[Hứa Xương]], Hà Nam{{RefTag|name=简明中国历史地图集}}
Dòng 162:
[[Hữu Sân|Hữu Sân thị]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=有莘氏|简=有莘氏|拼音=Yǒushēnshì|注音=ㄧㄡˇ ㄕㄣ ㄕˋ|同音字=友深式}}。}}{{NoteTag|1=địa điểm hiện nay có nhiều thuyết như: huyện [[Y Xuyên]] của Hà Nam, khu [[Tuy Dương, Thương Khâu|Tuy Dương]] của Hà Nam, huyện [[Nội Hoàng]] của Hà Nam, huyện [[Tào (huyện)|Tào]] của Sơn Đông, huyện [[Hợp Dương]] của Thiểm Tây.}} là hậu duệ của Đế Khốc Cao Tân thị. Thời Khải, phong quốc cho Chi Tử. Giao thời Hạ-Thương, dưới sự bang trợ của [[Y Doãn]], Hữu Sân thị và Thương Thang kết minh tại Bắc Bạc{{NoteTag|1=cũng ghi là "Cảnh Bạc".}}, Thang còn cưới phi từ Hữu Sân thị.{{RefTag|name=晁福林}}
 
"Sơn Hải kinh-Hải ngoại tứ kinh" chép rằng ngoại biên Hạ hậu thị có rất nhiều phương quốc mang tên có chữ "quốc", có khả năng chỉ là thần thoại song cũng có khả năng là danh xưng sai lệch của các bộ lạc viễn cổ.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《山海经研究》|author=张春生|publisher=上海社会科学院出版社|date=2007年10月1日|language=Trung văn giản thể|isbn=9787807450719}}}}。
 
== Ngoại tộc ==
=== Tam Miêu ===
Trong Hán ngữ thời Thượng Cổ, "Miêu" và "Man" đồng âm đồng ý, Tam Miêu và "Nam Man" của hậu thế có thể có cùng nguồn gốc.{{RefTag|name=王玉哲}} "Chiến Quốc sách-Ngụy sách" chép rằng vị trí của Tam Miêu: phía đông Động Đình, phía tây Bành Lễ{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=彭蠡|简=彭蠡|拼音=Pénglǐ|注音=ㄆㄥˊ ㄌㄧˇ|同音字=鹏李}},}}{{NoteTag|1=không xác định được địa điểm hiện nay, trong "Vũ cống" ghi rằng Bành Lễ nằm ở phía bắc Trường Giang, không phải là tên gọi cổ của [[hồ Bà Dương]].}}, bắc đến Văn Sơn, nam tiếp Hành Sơn.{{NoteTag|name=三苗|1=“khi xưa Tam Miêu sống ở phía trái sóng nước Bành Lên, phía phải làn nước Động Đình, phía nam của Văn Sơn, phía bắc của Hành Sơn.{{RefTag|1=《戰國策·魏策》.}}”. Vị trí hiện nay của “Động Đình”, “Bành Lệ”, “Văn Sơn”, “Hành Sơn” chưa xác định, có khả năng không lớn là [[hồ Động Đình]], [[hồ Bà Dương]], Văn Sơn, Hành Sơn. Vị trí thực tế do vậy không ra khỏi phạm vi hai tỉnh An Huy và Giang Tô hiện nay.{{RefTag|name=王玉哲}}}} Thời kỳ Nghiêu Thuấn, nước lụt tràn ngập, Miêu thừa cơ "nổi loạn" tại Đông Nam, cùng với [[Hoan Đâu]], [[Cộng Công thị|Cộng Công]], và Cổn gọi chung là Thiên hạ "tứ tội". Thuấn phái Vũ đi hàng phục dân Miêu song không đạt được kết quả. Thuấn trong những năm cuối từng tự thân nam chinh, trên đường bệnh mất tại Thương Ngô. Vũ kế tục sự nghiệp chinh Miêu, phát ra lời thệ sư "Vũ thệ", cùng quân Miêu triển khai đại chiến kéo dài trong 70 ngày, chế phục quân Miêu, bình định Tam Miêu.{{RefTag|1=《墨子·兼爱下》、《墨子·非攻下》.}} Từ đó, Tam Miêu suy lạc không dừng, biến mất khỏi vũ đài lịch sử.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《南蛮源流史》|author=何光岳|publisher=江西教育出版社|year=1988年11月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5392-0382-X}}}}
 
=== Đông Di ===
Người Di sống ở phía đông của Trung Nguyên, cho nên gọi là Đông Di, nổi tiếng về tài cung tên. Tộc Đông Di ban đầu phân bố tại khu vực [[Dịch (huyện)|huyện Dịch]], [[Bảo Định, Hà Bắc|Bảo Định]], Hà Bắc cho đến chân núi phía nam của [[Yên Sơn (núi)|Yên Sơn]], vào thời kỳ Hạ-Thương, họ phân ra làm bốn phần, một chi lưu cư tại trung bộ Hà Bắc, chi phía bắc đi vòng qua [[vịnh Bột Hải]] để đến [[Liêu Đông]] và [[bán đảo Triều Tiên]], chi phía nam qua Sơn Đông nam hạ đến khu vực [[Giang Hoài]], còn chi phía tây trải khắp hai tỉnh Sơn Tây và Hà Nam ở tây bộ [[bình nguyên Hoa Bắc]], xa nhất đến tận Thiểm Tây. Chi phía tây vào tảo kỳ thời Hạ xảy ra mâu thuẫn với Hạ hậu thị, trong giai đoạn từ Thái Khang đến Trữ trở thành mối uy hiếp không nhỏ đối với chính quyền Hạ hậu thị. Hữu Cùng thị là hậu duệ của [[Thiếu Hạo]]{{NoteTag|1=có thuyết cho là họ Yển.}} người Đông Di, nổi lên ở Cùng Tang{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc [[Khúc Phụ]], Sơn Đông}}, sau đó bắc thiên đến Cách{{NoteTag|name=鬲}} ven bờ [[Bột Hải (biển)|Bột Hải]], dần lớn mạnh tại đây. Thời kỳ [[Tam Hoàng Ngũ Đế|Tam Hoàng]], liên minh bộ lạc của Hữu Ngu thị hiệp đồng Thuấn Đế xua đuổi các bộ lạc nghịch minh Đại Phong, Thập Nhật, Cửu Anh, Tạc Xỉ, Phong Hy{{NoteTag|1=còn ghi là "Phong Thỉ".}}, Tu Xà. Đầu thời Hạ, Hữu Cùng thị tây thiên đến Tư, sát gần khu vực trung tâm của Hạ hậu thị. Thời Thái Khang, Hạ thất trung suy, thủ lĩnh Nghệ của Hữu Cùng thị thừa cơ tây tiến. Nghệ dẫn người nam vượt Hoàng Hà, diệt bốn thuộc quốc của Hạ hậu, chiếm cứ vùng chân núi phía bắc của Tung Sơn. Sau đó, Hậu Nghệ đoạt được Hạ đô Châm Tầm, đày Thái Khang ra đông bộ Hà Nam, lập Trung Khang làm quân chủ. Trung Khang mất, con là Tướng được lập, Nghệ bèn thay thế nắm quyền. Tám năm sau, Nghệ bị nghĩa tử Hàn Trác sát hại, Hàn Trác nấu thịt Nghệ và cưỡng bách con Nghệ ăn, con Nghệ không chịu nên cũng bị Hàn Trác sát hại. Hàn Trác lấy thê của Nghệ, sinh ra Ế và Kiêu. Hàn Trác tàn bạo hôn dung, Hạ hậu Thiếu Khang liên hiệp với hàng thần Mĩ của Hữu Cách thị, Hữu Ngu, Hữu Nhưng, Châm Quán, Châm Tầm diệt Ế, Kiêu và Hàn Trác. Tộc nhân của Hữu Cùng thị từ đó rời khỏi khu vực Lạc Hà, dời về phía tây nam.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《东夷源流史》|author=何光岳|publisher=江西教育出版社|year=1990年8月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5392-0864-3}}}} Phân chi Đông Nam của tộc Đông Di có chín tộc, gọi chung là "Cửu Di". "Trúc thư kỉ niên" ghi rằng vào thời Tướng, "Vu Di đến quy thuận", nhưng thời Thiếu Khang phục quốc chỉ có Phương Di quy phụ, tám tộc còn lại tiếp tục chống lại Hạ tộc. Trong thời gian Trữ tại vị, quân Hạ nhiều lần chiến thắng trước tộc Di, giúp khoách trương thế lực của Hạ hậu đến bờ biển Hoa Đông. Đến thời Hòe, Cửu Di lần lượt quy phụ Hạ hậu, sau đó Di và Hạ hòa hảo.{{RefTag|name=竹書紀年}}
 
=== Thương ===
Thương tộc mang họ Tử, nguyên là Đông Di, thủy tổ là [[Tử Tiết|Tiết]]{{NoteTag|1={{tiêu âm|繁=契|简=契|拼音=Xiè|注音=ㄒㄧㄝˋ|同音字=卸}}.}} do [[Giản Dịch]] thuộc Hữu Tung thị sinh. Tiết là nhân vật sống cùng thời kỳ với Vũ, sống tại hạ du Hoàng Hà, từng hiệp trợ Đại Vũ trị thủy.{{NoteTag|1=“佐禹治水有功。”{{RefTag|1=汉·司马迁,《史记·殷本纪》.}}}} Trải qua năm vị tiên công là [[Chiêu Minh]], [[Tướng Thổ]], [[Xương Nhược]], [[Tào Ngữ]], [[Minh (tiên công tộc Thương)|Minh]], Thương tộc phát triển từ đông bộ Hà Bắc đến bắc bộ Hà Nam. Minh nhậm chức thủy quan của Hạ hậu, mất trong quá trình trị thủy.{{RefTag|1=《国语·鲁语》.}} Trong thời gian con của Minh là [[Vương Hợi]] tại vị, kinh tế Thương tộc đạt đến đỉnh cao mới, [[bốc từ]] ghi rằng Vương Hợi trong một lần tế tự có thể dùng nhiều đến 50 đầu bò. Thủ lĩnh [[Miên Thần]] của Hữu Dịch thị cưỡng bách Vương Hợi giao ra gia súc và nhân khẩu, Vương Hợi cự tuyệt, Miên Thần liền sát hại Vương Hợi và đoạt lấy bò dê.{{RefTag|1=《易经·大壮》.}} Về sau, đệ của Vương Hợi là [[Vương Hằng]] đoạt về bò dê từ trong tay của Miên Thần. Con của Vương Hằng là [[Thượng Giáp Vi]] liên hiệp với Hà Bá thị thảo phạt Hữu Dịch thị, giết Miên Thần. Thương tộc bắt đầu lớn mạnh đồng thời với việc Hữu Cùng thị suy lạc.{{RefTag|name=晁福林}} Thời kỳ [[Chủ Nhâm]], [[Chủ Quý]], thế lực của Thương tộc không ngừng tăng lên, họ tập hợp các thị tộc bộ lạc ở hạ du Hoàng Hà, từng bước một tiến gần đến khu vực Trung Nguyên của Hạ hậu thị. Sau khi [[Thành Thang|Thiên Ất Thang]] kế vị, Thương thu thập nhân tài, dưới sự hiệp đồng của [[Y Doãn]], [[Trọng Hủy]], Nữ Cưu, Nữ Phòng, bắt đầu chinh [[Cát (nước)|Cát]]{{NoteTag|1=tương truyền nay thuộc huyện [[Ninh Lăng]], Hà Nam.{{RefTag|1=顏師古注文,《汉书·地理志》.}}}}, lại trước sau tiêu diệt các thị tộc thân Hạ như Vi, Cố, Côn Ngô, làm suy yếu thế lực của Hạ hậu, "mười một cuộc chiến mà thành vô địch thiên hạ{{RefTag|1=《孟子·滕文公下》.}}". Thang thừa cơ đất Hạ phát sinh hạn tai mà khởi binh tây tiến, triển khai chiến đấu với Hạ Kiệt tại Minh Điều, Kiệt không chặn nổi nên phải chạy đến Nam Sào. Thang xưng vương tại Tây Bạc, Hạ triều hoàn toàn sụp đổ, Thương triều thành lập.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《商源流史》|author=何光岳|publisher=江西教育出版社|year=1994年11月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5392-1997-1}}}}
 
== Thể chế chính trị ==
Dòng 187:
 
=== Thể hệ quan chức ===
"Lễ ký-Tế nghĩa" viết rằng "thời xưa, Hữu Ngu thị quý đức và thượng xỉ, Hạ hậu thị quý tước và thượng xỉ", phản ánh người Hạ xem trọng quan vị, cũng qua đây có thể nói chức quan đời Hạ có phân biệt đẳng cấp cao thấp rõ ràng.{{RefTag|1=《礼记·祭义》.}} Trong văn hiến hậu kỳ có chép rằng thời Hạ đã lập chuỗi quan chức lớn nhỏ. Trong "Thượng thư-Cam thệ" có ghi "đại chiến ở Cam, bèn triệu lục khanh, Vương nói: Ôi!{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=嗟|简=嗟|拼音=jiē|注音=ㄐㄧㄝ|同音字=街}}, âm tự dùng để thể hiện sự than vãn vào thời cổ.}}, lục sự chi nhân, ta thệ cáo ngươi"; còn trong "Mặc tử-Minh quỷ" có viết "tả hữu lục nhân"; lục khanh, lục sự chi nhân, lục nhân có khả năng giống như giống như [[lục khanh]] thời Chu, sáu vị đại quan giúp đỡ Hạ hậu quản lý sự vụ quốc gia.{{RefTag|name=甘誓|1=《尚书·夏书·甘誓》.}} "Lễ ký-Minh đường vị" có nói đến "Hạ hậu thị quan bách" chỉ là quan viên hạ cấp của lục sự chi nhân.{{RefTag|1=《礼记·明堂位》.}} Từ "bách" trong "quan bách" chỉ số nhiều, cũng không phải là số tròn chục, có rất ít ghi chép về chức vị của quan bách.{{RefTag|name=中国法制通史}} Thời Hạ, có nhiều chức quan gọi là "chính", có "mục chính" quản lý việc chăn thả gia súc, bào chính quản lý việc nấu ăn nhà bếp, xa chính chuyên quản lý việc chế tạo xe. Bên dưới quan "chính" còn tồn tại tiểu lại gọi là "công". "Hạ thư" viết "tù nhân dĩ mộc đạc{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=木鐸|简=木铎|拼音=mùduó|注音=ㄇㄨˋ ㄉㄨㄛˊ|同音字=目夺}}, cái mõ có lưỡi bằng gỗ dùng để tuyên lời dạy, gây chú ý khi tuần hành}} tuẫn vu lộ".{{RefTag|1=《左传·襄公十四年》dẫn từ《尚书·夏书》。{{NoteTag|name=《左传》引文|1=nguyên văn trong "Thượng thư-Hạ thư" không được truyền thế, chỉ có thể dẫn từ Tả truyện.}}}}”, quan viên mà Hạ hậu cho đi tứ xứ tuần chinh thi ca và ý kiến gọi là "tù nhân". "Hạ thư" có viết "Thần bất tập ư phòng{{NoteTag|name=弗|1=còn viết là "Thần phất tập ư phòng"}}{{NoteTag|1=Mặt Trời không xuất hiện hoàn chỉnh trên trời của phòng ốc, tức [[nhật thực]]}}, mậu{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=瞀|简=瞀|拼音=gǔ|注音=ㄍㄨˇ|同音字=骨}}。}} tấu cổ, [[sắc phu]] trì, [[thứ nhân]] tẩu{{RefTag|name=昭公十七年|1=《左传·昭公十七年》引自《尚书·夏书》。{{NoteTag|name=《左传》引文}}}}", tự thuật về một khoảng thời gian xảy ra [[nhật thực]], có "mậu" quan đánh trống lớn để báo cho mọi người, mỗi quan lại và thứ dân tự chạy vội vàng báo cho nhau. "Tù nhân", "mậu", "sắc phu" đều thuộc tiểu lại cấp "công"{{RefTag|name=中国法制通史}} Hạ hậu có khả năng còn có "quan chiêm"{{NoteTag|1=tức “chiêm quan”, “bốc quan”, danh từ thường thấy trong Hán ngữ thượng cổ, thứ tự từ ngữ đảo ngược khi tính từ đứng sau.}}{{NoteTag|1=“官占,唯能蔽志,昆命于元龟。”{{NoteTag|name=《左传》引文}}{{RefTag|1=《左传·哀公十八年》 dẫn từ 《尚书·夏书》。}}}} chuyên lo việc bói toán bằng mai rùa và cỏ thi (tức bốc thệ). "Mặc Tử-Canh trú" chép rằng Hạ hậu Khải đúc đỉnh ở Côn Ngô, từng thông qua bốc quan dưới quyền là Ông Nan Ất để cầu vấn thiên thần{{NoteTag|1=《墨子·耕柱》,“使翁-{難雉}-乙卜于白若之龟。”古无“-{雉}-”字,应为“-{難}-”字的重写讹化,卜官实名“翁-{難}-乙”。{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《墨子》|author=周才珠、齊瑞端 译注|publisher=台灣書房出版有限公司|year=2000年|language=Trung văn phồn thể|isbn=9789578499522}}}}}}{{RefTag|name=耕柱}} Ngũ phục cống phú từ Cửu châu là nguồn kinh tế chủ yếu của Hạ hậu thị, trong số các "quan bách" của Hạ hậu thị có nhiều người chuyên lo việc trưng thu phú dịch.{{RefTag|name=晁福林}} Trong "Thượng thư-Hạ thư", liên quan đến quá trình thiết quan phân chức về đại lược, có viết "phú nạp dĩ ngôn, minh thí dĩ công, xa phục dĩ dung.{{NoteTag|dịch nghĩa “đầu tiên nghe lời nói của ông ta, quan sát chí hướng của ông ta, tiếp đến là trao cho ông ta nhiệm vụ để khảo nghiệm bản lĩnh và hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ của anh ta, cuối cùng cấp cho ông ta xe ngựa, quan phục để định rõ chức vị của ông ta.”}}{{RefTag|name=僖公二十七年|1=《左传·僖公二十七年》.}}
 
=== Chế độ phú nạp ===
[[FileTập tin:五服图.png|thumb|250px|<center>Hình thể hiện khái niệm Ngũ phục<br />("Khâm định thư kinh đồ thuyết" thời Thanh)</center>]]
Chế độ thị tộc phong kiến thời Hạ cũng có sự thể hiện về mặt kinh tế. Thượng thư viết "Tứ hải hội đồng, lục phủ khổng tu. Thứ thổ giao chính, để thận tài phú, hàm tắc tam nhưỡng thành phú, trung bang tích thổ, tính, chi đài đức tiên, bất cự trẫm hành"{{RefTag|name=禹贡}}, tức nói thị tộc bộ lạc trong tứ hải đều quy phụ Hạ hậu, sáu loại vật chất kim mộc thủy hỏa thổ cốc đều chịu trị lý, phân biệt rõ ràng ruột đất tốt xấu các xứ, đem phân vào ba hạng để quyết định số lượng phú nạp, khiến cho việc phú nạp được hợp lý mà không thiên lệch, việc ban đất, ban họ căn cứ vào quan hệ giữa phương quốc bộ lạc và Hạ hậu mật thiết hay xa cách để định ra thứ tự phong kiến trước sau. Thiên "Vũ cống" cũng liệt ra tình hình cụ thể về vật phẩm mà Cửu châu phú nạp, đem số lượng vật phẩm phân thánh 9 hạng: thượng thượng, trung thượng, hạ thượng, thượng trung, trung trung, hạ tủng, thượng hạ, trung hạ, hạ hạ.{{NoteTag|name=九州九等}} Ngoài ra, còn căn cứ vào cự ly địa lý xa gần so với đô ấp của Hạ hậu thị mà phân ra "Ngũ phụ" điện, hầu, tuy, yêu, hoang{{NoteTag|1=<br />500 lý điện phục: 100 lý phú nạp tổng, 300 lý nạp trất (liềm), 300 lý nạp kiết phục (áo rơm), 400 lý túc (thóc), 500 lý mễ (gạo).<br />500 lý hầu phục: 100 lý thải, 200 lý nam bang, 300 lý chư hầu.<br />500 lý tuy phục: 300 lý quỹ văn giáo, 200 lý phấn vũ vệ.<br />500 lý yêu phục: 300 lý di, 200 lý thái<br />500 lý hoang phục: 300 lý man, 200 lý lưu.{{RefTag|name=禹贡}}}}.
 
Dòng 197:
*Tuy phục là khu vực có cự ly 1000-1500 lý tính từ đô thành Hạ, là khu vực ven nằm trong phạm vi thế lực của Hạ hậu. Trong ba trăm lý đầu thi hành quản lý văn hóa giáo dục, trong hai trăm lý còn lại tiến hành phát huy vũ lực để phòng vệ.
*Yêu phục là khu vực có cự ly 1500-2000 lý tính từ đô thành Hạ, là khu vực mà Hạ hậu phải thông qua phương pháp kết minh giao thiệp để gia tăng ảnh hưởng. Trong ba trăm lý đầu thì thông qua đồng minh sống chung hòa bình, hai trăm lý còn lại là nơi lưu đày dân Hạ.
*Hoang phục là khu vực có cự ly 2000-2500 lý tính từ đô thành Hạ, là cương vực của dị tộc, chỉ có liên hệ gián tiếp với Hạ hậu thị. Trong ba trăm lý đầu là các dân tộc thiểu số, hai trăm lý ngoài là nơi lưu đày{{RefTag|1={{Citechú thích web|url=http://www.chinactwh.com/wdtsg_show.aspx?Id=84|title=12、大禹的贡献|publisher=中国传统文化网|date=2011-03-06 15:42:51|accessdate=2011-07-03 18:28|language=Trung văn giản thể}}}}.
 
Miêu tả về Cửu đẳng và Ngũ phục là theo cách nhìn của người thời Chu đối với kinh tế phú nạp của triều Hạ, không nhất định là thực tế vào thời Hạ. Như thép, thép cứng không có nhiều khả năng là vật phẩm thời Hạ, tước vị chư hầu thời kỳ Hạ cũng không có cách nào khảo chứng. Tuy nhiên, trong đó phản ảnh một số quan điểm, như Hạ hậu căn cứ đường đi xa gần và tình hình sản xuất các nơi để định ra các sản vật phải nộp khác nhau, có thể đúng là thực tế vào thời Hạ.{{RefTag|name=晁福林}}
 
Luận thuật về chế độ phú nạp của triều Hạ, "[[Mạnh Tử (sách)|Mạnh Tử]]" viết "Hạ hậu thị năm mươi{{NoteTag|name=亩|1=chữ số này là số [[mẫu (đơn vị đo)|mẫu]].}} mà cống, người Ân bảy mươi{{NoteTag|name=亩}} mà trợ, người Chu trăm mẫu mà triệt, kỳ thực đều đánh thuế thập phân"{{RefTag|name=滕文公上|1=《孟子·滕文公上》.}}, ý là chế độ "cống" thời Hạ, "trợ" thời Ân và "triệt" thời Chu thực tế đều buộc dân hộ nộp một phần mười vật phẩm làm ra mỗi năm, và chế độ điền phú Tam Đại Hạ-Thương-Chu một mạch nối tiếp nhau, [[Cố Viêm Vũ]] dựa vào đó mà nhận định "chế độ điền phú từ thời cổ đến nay, thực tế bắt đầu từ Vũ".{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《日知錄·卷七》|author=顾炎武|date=1639年}}}} Chế độ thập phân của triều Chu lấy tổng thu hoạch bình quân trong vài năm của một dân hộ, sau đó thu một số trung dung không đổi làm số lượng thuế phải nộp.{{NoteTag|1=[[Công Tôn Long|Long Tử]] thời [[Chiến Quốc]] có tả "cống giả, số tuế vi trung dĩ vi thường", thực tế là bắt nguồn từ tình hình những năm Chiến Quốc, không phải là nói về tình hình thời Hạ.{{RefTag|name=滕文公上}}{{RefTag|name=晁福林}}}}, với sức sản xuất và sức bức xạ của chính quyền thời Hạ thì vẫn chưa đủ khả năng thi hành chế độ địa tô thực vật như vậy. Mạnh Tử viết chữ "cống", mang nghĩa thể hiện là giữa dân chúng và quý tộc không có yếu tố cưỡng chế quá lớn, mà có khả năng tồn tại tính tự nguyện ở một mức độ nhất định. Chế độ phú cống mang tính chất dân chúng tự chủ này phù hợp với thời Hạ, vốn có sức sản xuất thấp kém và chính quyền của Hạ hậu thị có cơ cấu không hoàn chỉnh, cũng gần gũi với trật tự kinh tế dân chủ của thị tộc bộ lạc nguyên thủy. Vào mạt kỳ triều Hạ, quan hệ giữa Hạ hậu thị và phương quốc bộ lạc xấu đi, Hạ hậu Kiệt thảo phạt tứ xứ, ông tăng số điền phú quy định để sung cho quân phí, tăng thêm gánh nặng cho nhân dân, kích thích tâm lý bất mãn, khiến họ phản lại Hạ hậu mà chạy sang với Thương Thang. Trong lúc chinh Hạ, Thang từng thề trước mọi người "tội Hạ như thế nào? Hạ vương làm hại đến sức của mọi người, chia cắt Hạ ấp, có dân chúng mệt mà chẳng giúp" để trách tội trạng chủ yếu của Kiệt. Ngoài việc cống thập phân, Kiệt còn bắt dân binh chinh dịch, sau đó dân chúng bất mãn nên chọn thái độ bất hợp tác. Nhìn sang chế độ "trợ" thời Ân-Thương, bình dân bách tính ngoài nghĩa vụ sản xuất nông nghiệp còn có trách nhiệm lao dịch với binh dịch là chính, kết quả là Thương tộc có thể động viên binh lực lớn hơn so với Hạ hậu.{{RefTag|name=晁福林}}
 
=== Chế độ hình pháp ===
Văn hiến cổ chép rằng vào thời kỳ Hạ đã có chế độ hình pháp khá hoàn thiện. "Thượng thư-Lã hình" có viết "Mục vương theo Thục hình thời Hạ mà chế ra Lã hình", tức là chỉ việc [[Chu Mục vương]] lấy Thục hình của triều Hạ để chế định chế độ hình pháp của Chu quốc, là tham khảo trọng yếu của "Lã hình". "Thục hình" được viết trong văn bản có nhiều khả năng là một loại{{RefTag|1=《左传·昭公六年》.}}{{RefTag|1=《尚书·吕刑》.}} với "Vũ hình"{{NoteTag|1="Vũ hình" xuất hiện lần đầu trong "Tả truyện-Chiêu công lục niên", [[Túc Hướng]] của Tấn quốc trích dẫn khi phê phán Chú hính thư của [[Tử Sản]] nước Trịnh, có lẽ là người thời Chu nhớ đến Đại Vũ mã đặt tên, song do niên đại xa cách, không thể khảo chứng thời Hạ có thật là có Vũ hình không. Học giả thuộc phái nghi cổ phần nhiều nhận định niên đại thành thư của Vũ hình không có khả năng trước thời Tây Chu.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《古史辨》|author=顾颉刚、钱玄同等|volume=第一册|year=1926年、1982年|publisher=上海古籍出版社|pages=第62页|language=Trung văn phồn thể}}}}}} trong Tả truyện "Hạ hữu loạn chính, nhi tác Vũ hình"{{NoteTag|1=dịch văn: nhân vì vào thời kỳ Hạ xuất hiện hiện tượng nhân dân vi phạm chính lệnh của Hạ hậu, do vậy Hạ hậu chế định ra hình pháp để khắc chế dân chúng.}} Nhưng Thục hình{{NoteTag|1=Triều Phúc Lâm căn cứ theo chữ "thục" trong "thục hình" mà phỏng đoán có khả năng chỉ việc dùng vật phẩm chuộc đền để thay thế hình pháp thân thể, song cũng không loại trừ khả năng "thục mệnh" (tử hình).{{RefTag|name=晁福林}}}}, Vũ hình có phải là hình pháp vào thời Hạ hay không, nội dung cụ thể ra sao, đến nay vẫn chưa khảo được. Trong Tả truyện có dẫn thuật từ "Hạ thư" về hình pháp thời Hạ "hôn{{NoteTag|1=bản thân làm điều xấu song lại đi vu cáo hãm hại danh dự của người khác}}, mặc{{NoteTag|1=tham lam vô độ, bại hoại đạo làm quan.}}, tặc{{NoteTag|1=sát hại bừa bãi người vô tội.}}, sát"{{RefTag|1=《左传·昭公十四年》 dẫn từ 《尚书·夏书》。}}, nghĩa là người phạm vào ba loại tội hôn, mặc, tặc này thì sẽ bị phán tử hình. [[Thúc Hướng]] nước Tấn gọi loại hình pháp này là "Cao Dao chi hình".{{RefTag|1=晋国《刑书》.}} Tuy quan niệm tử hình đã sản sinh từ thời đại đồ đá mới, song lý quan của Vũ là Cao Dao có khả năng là nhân vật đầu tiên pháp luật hóa tử hình.{{RefTag|name=中国法制通史}} "Hoàn thổ{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=圜土|简=圜土|拼音=Huántǔ|注音=ㄏㄨㄢˊ ㄊㄨˇ|同音字=环土}}。}}"{{NoteTag|1=“夏后芬三十六年作圜土。”{{RefTag|name=竹書紀年}}}} của Hạ hậu Hòe, nơi Thương Thang bị Hạ kiệt giam giữ là "Hạ đài" chính là nhà giam thời Hạ{{NoteTag|1=“圜土,狱城也。”{{RefTag|1=《周礼·秋官·大司寇》.}}}}, nhà giam được ghi chép sớm nhất trong sách sử Trung Quốc.{{RefTag|name=夏本纪}}{{NoteTag|1=“三王始有狱。”{{RefTag|1=汉·[[應劭]],《[[風俗通義]]》.}}}} Hoàn thổ là một loại nhà giam nguyên thủy, có hình tròn được đào bên dưới lòng đất, trên mặt đất dựng bờ rào vây quanh thổ lao.{{RefTag|name=中国法制通史}} "Đại Vũ mô" viết "giới chi dụng hưu, đổng chi dụng uy, khuyến chi dĩ "Cửu ca", tỉ vật hoại"{{RefTag|1=《尚书·大禹謨》.}}, đánh giá rằng việc Hạ hậu lập ra hình pháp là một loại thủ đoạn trong việc tiến hành trị lý dân chúng.{{RefTag|name=晁福林}}
 
== Chế độ quân sự ==
Do thiếu thốn sử liệu, tình hình cụ thể về chế độ quân sự triều Hạ khó mà khảo chứng được, chỉ có thể rút ra từ sử sách về chiến tranh. Trong "Cam thệ" có chép đến chiến tranh giữa Khải và Hữu Hổ thị, đề cập đến chi tiết Hạ hậu triệu lệnh Lục khanh{{NoteTag|1=“六事之人”。}}{{NoteTag|1=“大战于甘,乃召六卿。”{{RefTag|name=甘誓}}}}, lục khanh là gọi chung tướng lĩnh sáu lộ quân đội,{{NoteTag|1=“天子六军,其将皆命卿也。”{{RefTag|1=《史记·集解》.}}}} mỗi người trong đó lãnh đạo một đội quân, Hạ hậu có quân quyền tối cao, chỉ huy lục khanh, có thể thấy vào thời Hạ đã có chế độ quân quyền tập trung. "Cam thệ" có ghi rằng Hạ hậu ban hành lệnh động viên khi chuẩn bị thảo phạt Hữu Hổ thị, đây là ghi chép quân pháp sớm nhất trong lịch sử Trung Quốc, rằng "tả bất công vu tả, nhữ bất cung mệnh; hữu bất công vu hữu, nhữ bất cung mệnh; ngự phi kì mã chi chính, nhữ bất cung mệnh. Dụng mệnh, thưởng vu tổ; phất dụng mệnh, thưởng vu xã. Dữ tắc nô lục nhữ"{{NoteTag|1=dịch văn: Trong số những người tham gia chiến đấu, nếu sĩ tốt nào ở bên trái chiến xa mà không giỏi dùng cung tên bắn giết kẻ địch, thì họ không có đủ năng lực chấp hành mệnh lệnh; nếu sĩ tốt nào ở bên phải chiến xa mà không giỏi dùng [[mâu|trường mâu]] đâm chết kẻ địch, thì họ không có đủ năng lực chấp hành mệnh lệnh; binh sĩ điều khiển chiến xa nếu không thành thạo kỹ thuật đánh xe, thì họ không có đủ năng lực chấp hành mệnh lệnh. Người nỗ lực thực hiện mệnh lệnh sẽ được ban thưởng trước thần vị tại tổ miếu, người không nỗ lực thực hiện mệnh lệnh sẽ bị xử tử trước thần vị tại tổ miếu.}}{{RefTag|name=甘誓}}”, phản ánh quân pháp vào thời Khải tương đối nghiêm khắc.{{RefTag|name=中国法制通史}}. "[[Tư Mã pháp]]-Thiên tử chi nghĩa ghi "kì, Hạ hậu thị huyền thủ, nhân chi chấp dã. Chương, Hạ hậu thị dĩ nhật nguyệt, thượng minh dã", có vẻ nói đến việc quân đội của Hạ hậu trên chiến trường có người cầm cờ sử dụng cờ đen để chỉ huy, binh tốt dựa vào dấu hiệu hình nhật nguyệt mà nhận biết.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国上古军事史》|author=高锐|publisher=军事科学出版社|date=1995年8月|location=中国北京|pages=第24页|language=Trung văn giản thể|isbn=978-7800218149}}}}
 
Kết hợp các ghi chép trong văn hiến và phát hiện khảo cổ có thể biết rằng thời Hạ có hai loại binh chủng là xa binh và bộ binh, đương thời còn chưa có kị binh. Thời Hạ đã có mã chiến xa làm bằng gỗ, binh sĩ trên xe phân thành tả, hữu, ngự, ngự giả điều khiển chiến xa và chỉ huy tác chiến, còn binh sĩ tả hữu bảo vệ cho ngự giả. Nhưng dựa theo sức sản xuất thời viễn cổ mà nói, việc chế tạo xe ngựa rất hạn chế, chỉ có thể cung ứng cho Hạ hậu hoặc tướng lĩnh chỉ huy thượng cấp sử dụng, xa binh không phải là chủ lực trên chiến trường. Bộ binh là bộ phận tổ thành chủ yếu của quân đội thời Hạ. Đương thời, binh sĩ và nông dân hợp nhất, chưa có quân đội chuyên nghiệp hóa, vào thời bình họ tham gia hoạt động nông nghiệp và súc mục nghiệp như thường, trong thời kỳ chiến tranh thì họ biến thành lực lượng quân sự.{{RefTag|name=中国远古暨三代军事史|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国远古暨三代军事史》|author=杨胜勇|publisher=人民出版社|date=1994年1月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-01-001348-9}}}} Binh khí thời viễn cổ bắt nguồn từ công cụ lao động sản xuất, đa số công cụ có thể sử dụng cho cả chiến tranh và lao động. Căn cứ vào các di vật khai quật được tại di chỉ văn hóa Nhị Lý Đầu, binh khí thời Hạ chủ yếu làm từ gỗ, đá, xương, ngoài ra sau kỳ thứ ba phát hiện được một ít binh khí bằng đồng thanh. Binh khí làm bằng gỗ chủ yếu là thù, bổng (gậy), cung, song do lõi gỗ dễ mục, số dụng cụ còn lại khá ít. Binh khí làm bằng đá có rất nhiều chủng loại, đại biểu có búa đá, rìu đá, mác đá, cầu đá, đầu mũi tên làm từ đá, đầu mâu làm từ đá. Vỏ trai dùng nhiều trong chế tạo đầu mũi tên, cũng như là vật phụ trợ để tăng cường tính sát thương cho thù gỗ hay gậy gỗ. Từ kỳ thứ ba về sau xuất hiện binh khí bằng đồng thanh, song chỉ là số ít, có khả năng là để Hạ hậu, tướng lĩnh và nhân sĩ thuộc thượng tầng trong xã hội đeo. Ngoài ra, còn có binh khí lễ nghi làm bằng đồng thanh và ngọc thạch, dùng làm vật phẩm tùy táng cho quý tộc.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“二里头遗址出土兵器初探”|journal=《江汉考古》|author=郭妍利|issue=第112期|year=2009年|month=3月|location=陕西西安|language=Trung văn giản thể}}}}
 
== Nhân khẩu ==
Nhân khẩu triều Hạ là vấn đề chưa thể xác định, do niên đại xa cách, chỉ có thể thông qua suy tính số học tiến hành nghiên cứu. "[[Hậu Hán thư]]-Quận quốc chí" bổ chú, dẫn từ "Đế vương thế kỷ" của [[Hoàng Phủ Mật]] (215-282) nói rằng: "đến khi Vũ bình thủy thổ, hoàn thành Cửu châu,...,dân khẩu 1.3553.923 người{{RefTag|1=南朝梁·劉昭注解晋·司马彪之《续汉书·郡国志一》引自晋·皇甫谧之《帝王世紀》。}}", song thực tế con số này là do Hoàng Phủ Mật căn cứ vào nhân khẩu thời Tần, Hán, Tây Tấn mà suy tính ngược ra.{{NoteTag|1=số liệu này chi tiết đến hàng đơn vị, song trong văn hiến thời Tiên Tần đều không có ghi chép liên quan đến con số nhân khẩu triều Hạ, hơn nữa số lớn nhất trong bốc từ giá cốt văn Ân Khư phát hiện được là 3 vạn, triều Hạ vốn thiếu những ghi chép về văn tự thì khó có khả năng lớn trong việc tiến hành ghi chép nhân khẩu quy mô lớn như vậy.{{RefTag|name=中国人口史}}}} Học giả hiện đại Tống Trấn Hào căn cứ việc khi Thiếu Khang cát cứ Luân ấp "hữu chúng nhất lữ{{NoteTag|name=哀公元年备注}}" cùng với chủ giải của Đỗ Dự "500 người là một lữ", tiến hành suy tính và nhận định 500 người chỉ là binh số có thể phái đi, cộng thêm người già, phụ nữ, trẻ nhỏ thì Luân Ấp có nhân khẩu 1500-2500 người, là số nhân khẩu một thành ấp hạng trung tiểu thời Hạ{{RefTag|name=夏商社会生活史|1={{Citechú bookthích sách|title=《夏商社会生活史》|author=宋镇豪|publisher=中国社会科学出版社|date=1994年9月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5004-1448-X}}}}. Tuy nhiên, "chúng nhất lữ" chưa hẳn là một đơn vị số lượng chính xác, cũng có thể lý giải là mang ý một quần thể người, chỉ có thể nói rằng vào thời kỳ Thiếu Khang đã có khái niệm về số lượng nhân khẩu nhất định. Do không có văn hiến ghi chép truyền thế đến nay, ngay cả việc thời Hạ đã từng tồn tại chế độ điều tra nhân khẩu, hiện cũng không thể thảo luận. Thống kê nhân khẩu chỉ có ý nghĩa trong giới hạn phạm vi không gian cụ thể, song nay không thể phục nguyên chính xác phạm vi thế lực cụ thể của triều Hạ, do vậy cũng không thể tham khảo nghịch suy.{{RefTag|name=中国人口史|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国人口史》|author=葛剑雄|publisher=复旦大学出版社|volume=卷一|date=2002年12月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-309-03520-8}}}} "Thượng thư đại truyện- Ngu truyện" giảng thuật là vào thời Thuấn "tám nhà xưa là một lân, ba lân thành một bằng, ba bằng thành một lý năm lý thành một ấp, mười ấp thành một đô, mười đô thành một sư, châu gồm mười hai sư". Vương Dục Dân căn cứ theo ghi chép này, giả sử mỗi nhà có năm khẩu, tính rằng thời Ngu Hạ có 432.000 hộ, 2,16 triệu người.{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《中国人口史》|author=王育民|publisher=江苏人民出版社|date=1995年11月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-214-01580-3}}}} Cuối cùng, dựa theo di chỉ khảo cổ văn hóa Nhị Lý Đầu để suy tính, Tống Trấn Hào thống kê rằng có ba thành ấp có nhiều đến 5000 cư dân, 1 chỗ có 4000-5000 nhân khẩu, 4 chỗ có 3000 nhân khẩu, 9 chỗ có 1.000 hay 2.000 nhân khẩu, 9 chỗ có 500-900 nhân khẩu, 5 chỗ có dưới 300 nhân khẩu. 27 thành ấp dạng mẫu bình quân nhân khẩu 1.000-1800 người, do vậy ước tính tổng nhân khẩu trong khoảng 2,4-2,7 triệu người.{{RefTag|name=夏商社会生活史}}
 
== Xã hội ==
Dòng 221:
== Kinh tế ==
=== Nông nghiệp ===
Vào thời Hạ, văn minh nông nghiệp có sự phát triển khá lớn. "Luận ngữ-Thái bá" ghi rằng "Vũ tận lực vào ngòi lạch", biến thủy tai thành thủy lợi, phục vụ trồng cấy. Kỳ thực việc ứng dụng kỹ thuật thủy lợi là do nhân dân lưu vực Hoàng Hà trong quá trình lao động thực tiễn dần tích lũy được, không phải chỉ do Đại Vũ tiến hành{{RefTag|name=王玉哲}} Theo truyền thuyết, đại thần của Vũ là Nghi Địch bắt đầu cất rượu, Hạ hậu Thiếu Khang cũng phát minh ra phương pháp cất rượu nếp. Vào hậu kỳ thời đại đồ đá mới, [[văn hóa Long Sơn]] thuộc văn hóa Trung Nguyên đã có tập quán cất rượu, đến thời Hạ khi mà sức sản xuất cao hơn thì cất rượu ngon, uống rượu ngon trở thành một cách để tượng trưng cho quyền lực và tài lực.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国古代的酒与钦酒》|author=刘军、莫福山、吴雅芝|publisher=商务印书馆|date=1995年6月|location=中国北京|language=Trung văn giản thể|isbn=7-80103-020-6}}}} Trong văn hiến cổ có ghi chép đến các truyền thuyết "Đỗ Khang làm rượu"{{RefTag|1=《尚书·酒诰》.}}, "Nghi Địch làm rượu"{{RefTag|1=《[[吕氏春秋]]·勿躬》卷十七.}}, "Thái Khang làm rượu nếp", "Thiếu Khang làm rượu nếp"{{RefTag|1=《世本·作篇》.}}, chúng là những bằng chứng về tầm quan trọng của rượu trong thời kỳ này. Thời kỳ Hạ-Thương-Tây Chu, rượu đều cất từ lương thực và có số độ không cao, cũng không nồng mạnh. Trong "Lễ ký-Ngọc tảo" có chép rằng cổ nhân uống ba chén ([[túc]]) rượu xong thì đầu óc vẫn tỉnh táo.{{NoteTag|1=“君子之饮酒也,受一爵而色酒如也。二爵而言言斯,礼已。三爵而油油。”{{RefTag|1=《礼记·玉藻》.}}}} Để đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp, người ta khám phá ra quy luật các mùa của nông sự, loại nông lịch vẫn được lưu hành đến nay từng được gọi là Hạ lịch- có khả năng được biên thành vào thời Hạ. Súc mục nghiệp có sự phát triển nhất định, còn có một số thị tộc bộ lạc chuyên môn chăn nuôi, như Hữu Hỗ thị sau khi thua Hạ hậu trong trận chiến tại Cam bị biếm làm mục nô làm việc chăn nuôi. Thức ăn chủ yếu của thứ dân Tam đại là cháo, cơm nấu từ các loại hạt. Đem các loại kê, gạo nấu thành cháo loãng, cháo đặc dùng để ăn, xã hội thượng tầng thì ăn nhiều cơm, có khi còn ăn rau xanh. Chỉ khi cử hành hoạt động tế tự quy mô lớn thì mới giết thịt gia súc để tế, thịt cúng đặt ở trong chiếc đỉnh trữ dưới lòng đất.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国饮食史》|author=徐海荣|publisher=华夏出版社|date=1999年10月1日|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5080-1958-X}}}}{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国古代饮食文化》|author=林乃桑|publisher=中共中央党校出版社|date=1991年11月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5035-0484-6}}}}{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《中国饮食》|author=刘军茹|publisher=五洲传播出版社|date=2004年12月1日|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5085-0541-7}}}} Tại nhiều điểm di chỉ văn hóa Nhị Lý Đầu phát hiện được các mẫu vật vỏ kê, vỏ thóc.{{RefTag|name=大百科}}
 
=== Thủ công nghiệp ===
"Khảo công ký" có viết rằng "Hạ hậu thị thượng tượng", thể hiện rằng Hạ hậu xem trọng sản xuất thủ công nghiệp. Triều Hạ thành công trong việc đưa văn minh Trung Nguyên từ thời đại đồ đá quá độ sang thời đại đồ đồng. Các đồ vật thời đại đồ đá mới như đồ đá tinh xảo, đồ xương sừng, đồ vỏ trai dần bị đồ gốm, đồ sơn mài, đồ ngọc thạch, đồ ngọc lam, đồ đồng, đồ đồng thanh thay thế. Tương truyền, vào thời kỳ Nghiêu Thuấn đã sử dụng đồ sơn, sang thời kỳ Hạ Vũ được sử dụng làm đồ tế, "mặc nhiễm kỳ ngoại, nhi chu họa kỳ nội".{{RefTag|1=《韩非子·十过》.}} Thời kỳ viễn cổ, nhân dân sử dụng rộng rãi đồ gỗ và sơn, song đồ làm bằng gỗ dễ dàng bị mục, không dễ bảo tồn, hiện nay khai quật được khá ít. Tại di chỉ Nhị Lý Đầu khai quật được một cái bàn nhỏ được sơn, lớp gỗ đều đã mục nát, song vẫn có thể phân tích ra hình dạng. Từ việc nghiên cứu hình dạng, phát hiện ra có nhiều loại như ống sơn, trống sơn, bát sơn, hộp sơn đáy bằng, hay quan tài sơn. Chế tạo đồ ngọc thạch thời Hạ đã có trình độ tương đối, "Tả truyện" viết rằng vào thời Chu sơ phân phong [[Lỗ quốc]] công [[Lỗ Bá Cầm|Bá Cầm]], ban cho bảo ngọc truyền thế, "Hạ hậu thị chi hoàng{{NoteTag|1=[[Đỗ Dự]] thời Tây Tấn chú giải: “hoàng là tên chỉ ngọc đẹp”; Khổng Dĩnh Đạt thời Đường giải thích: "Hạ hậu thị có vận quý, truyền qua các đời, thấy ngọc đẹp mà đặt tên như vậy.”}}"{{RefTag|1=《左传·定公四年》.}} Tại di chỉ Nhị Lý Đầu khai quật được nhiều loại đồ ngọc như [[qua (vũ khí)|qua]] ngọc, đao ngọc, khuê ngọc, tông ngọc, bản ngọc, việt ngọc. Các loại đồ ngọc này dùng làm vật phẩm trang trí trong lễ nghi, không phải là công cụ dùng trong thực tiễn. Trong số văn vật khai quật thuộc kỳ thứ ba của văn hóa Nhị Lý Đầu có binh khí làm bằng đồng thanh sớm nhất của Trung Quốc, ứng với ghi chép "Vũ huyệt chi thời, dĩ đồng vi binh".{{RefTag|1=《越绝书·卷十一》.}} Có nhiều chủng loại đồ đồng như qua, đao, đục, chùy, móc câu. Ngoài ra, còn phát hiện vết tích của việc chế tạo đồ đồng như than gỗ, vụn đồng đỏ, mảnh khuôn đúc, mảnh nồi nấu.{{RefTag|name=中国法制通史}}
 
Vào thời kỳ đồ đá mới, nghề xe sợi dệt vải có tiến bộ, xuất hiện [[khung cửi]] nguyên thủy, nguyên liệu xe sợi dệt vải trong xã hội hạ tầng phần nhiều là từ sắn dây, đay, còn trong xã hội thường tầng thì dùng nhiều lông{{NoteTag|1=lông cừu là chính{{RefTag|name=张书光}}}}, da, đương thời đã có tập quán nhuộm y phục.{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《中国古代的平民服装》|author=高春明|publisher=商务印书馆|date=1997年3月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-80103-083-4}}}}{{RefTag|name=张书光|1={{Citechú thích booksách|title=中国历代服装资料|author=张书光|publisher=安徽美术出版社|date=1990年8月|pages=第9—10页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5398-0141-7}}}} Mặc dù đến nay vẫn chưa phát hiện ra chứng cứ khảo cổ chứng tỏ văn hóa Nhị Lý Đầu sử dụng lụa, song đã có phát hiện khảo cổ liên quan trong [[văn hóa Long Sơn]], [[văn hóa Đại Vấn Khẩu]], [[văn hóa Lương Chử]] có niên đại sớm hơn{{RefTag|1={{Cite journal|title=“我国栽桑育蚕起始时代初探”|author=卫斯|journal=《农史研究》|publisher=农业出版社|year=1985年|issue=第六辑|language=Trung văn giản thể}}}}, kết hợp với ghi chép trong "Hạ tiểu chính" là "tam nguyệt, ... nhiếp tang. Tang nhiếp nhi ký chi, cấp tang dã. ...thiếp, tử thủy tàm{{RefTag|name=夏小正|1=《大戴礼记·夏小正》.}}, thì việc người Hạ từng sử dụng sản phẩm tơ lụa cũng có tình có lý.{{RefTag|name=中国美术史|1={{Citechú thích booksách|title=《中国美术史·夏商周卷》|author=李松|publisher=齐鲁书社、明天出版社|date=2000年12月|location=中国济南|language=Trung văn phồn thể|isbn=7-5333-0470-5}}}}
 
=== Thương nghiệp ===
Dòng 232:
 
== Giao thông và kiến thiết ==
Trong quá trình trị thủy, Đại Vũ mở núi thông sông, có tác dụng lớn đối với sự phát triển giao thông đường thủy và đường bộ thời cổ đại. "Sử ký-Hạ bản kỷ" có viết thời Vũ trị thủy "đi đường bộ ngồi xe, đi đường thủy ngồi thuyền{{NoteTag|1=còn viết là "chu"{{RefTag|name=大禹三考|1={{Cite journal|title=“大禹三考”|author=冯广宏|publisher=四川省水利研究所|journal=《四川文物》|language=Trung văn giản thể}}}}, cũng có nghĩa là thuyền đò.}}, đi qua bùn{{NoteTag|1=còn viết là "qua đầm".{{RefTag|name=大禹三考}}}} dùng khiêu (橇){{NoteTag|1=còn viết là “毳”、“輴”、“[[FileTập tin:䡅-繁體字.png|15px]]”, “[[FileTập tin:艹絕-繁體字.png|15px|]]”。{{RefTag|name=大禹三考}}}}, qua núi dùng cúc (檋){{NoteTag|1=còn viết là khiêu “桥”, cục “梮”, lũy “樏”, luy “蔂”.{{RefTag|name=大禹三考}}}}{{NoteTag|1=còn có “vượt bãi cát dùng cưu 鸠”.{{RefTag|name=大禹三考}}}}, ... để mở mang cửu châu, thông cửu đạo, vượt cửu trạch, qua cửu sơn, ... khi đem đồ cống tương ứng từ địa phương, đến chỗ sông núi thì có tiện lợi{{RefTag|name=夏本纪}}" thể hiện khi Đại Vũ trị thủy thì việc thông hành hết sức bất tiện, Đại Vũ lợi dụng các công cụ giao thông như xe, thuyền, khiêu để vượt sông suối bùn cát. Ông suất lĩnh quần chúng xây đắp đường bộ liên thông cửu châu, hỗ trợ việc thực thi chế độ cống nạp, cũng tạo điều kiện cho giao lưu kinh tế giữa các nơi.{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《中国古代道路交通史》|author=中国公路交通史编审委员会|publisher=人民交通出版社|date=1994年1月|pages=第3—7页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-114-01733-2}}}} Khu vực giao thông của Hạ hậu chiều đông tây ít là 500-600 lý, chiều nam-bắc ít là 300-400 lý.{{RefTag|name=中国交通史}} "Quốc ngữ-Chu ngữ" có chép "Hạ ra lệnh nói rằng tháng 9 mở đường, tháng 10 xong cầu{{RefTag|name=周语}}", tháng 9 nông lịch là sau mùa mưa, sửa sang đường bộ, tháng 10 nông lịch là sang mùa đông khô hạn thì xây cầu.
 
Di chỉ Nhị Lý Đầu tại Yển Sư có quy mô lớn chưa từng thấy trong lưu vực Hoàng Hà thời viễn cổ, trong văn hóa khảo cổ cùng thời kỳ cũng không có.{{RefTag|name=郑杰祥}} Tại trung tâm địa lý của khu vực văn hóa Nhị Lý Đầu có thể là một tòa đô ấp hoặc thành thị lớn thời Hạ.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“夏商周三代城市聚落研究”|author=徐良高|journal=《三代考古》|publisher=科学出版社|date=2004年9月|location=中国北京|volume=第一册|pages=第38—39页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-03-014010-9}}}} Đã xác nhận có hai tòa cung điện số 1 và 2, riêng tại tường phía bắc của cung điện số 2 còn có nền móng số 6 có kích thước đồng đẳng thuộc kỳ thứ 4. Hai quần thể kiến trúc này thể hiện bố cục trục tuyến giữa.{{RefTag|name=中国美术史}}{{RefTag|name=最早的中国|1={{Citechú bookthích sách|title=《最早的中国》|author=许宏|publisher=科学出版社|date=2009年8月|location=中国北京|language=Trung văn giản thể|isbn=7208074232}}}} Cung điện số 1 có hình hơi vuông, khuyết một góc đông bắc, chiều đông tây tổng cộng rộng 96,2 mét, chiều nam bắc tổng cộng dài 107 mét, tổng diện tích mặt đất là 9585 m². Điện đường chính nằm ở phía bắc trông về phía nam, mặt rộng 8 gian, vào sâu 3 gian. Bốn phía có tường vách bao quanh, trong có lang vũ hành đạo, tường đông có một phòng bên. Trên trục tuyến giữa hướng về chính nam có cửa lớn mở rộng, phân thành ba môn đạo, mỗi phía bắc và đông có một cửa bên. Cung điện số 2 đông tây rộng 58 m, bắc nam dài 72,8 m, có tường bao quanh bốn mặt và hồi lang ba mặt đông, nam, tây. Cung điện số 1 và 2 đều có đường ống thoát nước làm từ gốm, song hệ thống ở cung điện số 2 được bảo tồn tương đối hoàn chỉnh, đường ống cấu thành từ nhiều phần ống gốm liên tiếp. Mỗi phần có đường kính từ 16,5-225–22 cm, dài 52-5852–58 cm, dày khoảng 2 cm, đặt trong một rãnh được đào trước sâu 1 mét dưới đất nhằm đề phòng thấm nước. Bản đá dày 5-75–7 cm được gác phía trên ống gốm, rãnh, nhằm đề phòng người đi tạo sức ép làm vỡ ống gốm. óng gốm có xu thế tây cao đông thấp, thông qua chênh lệch độ cao để đưa nước mưa từ trong cung điện đình viện ra bên ngoài.{{RefTag|name=偃师二里头考古发掘报告|1={{Citechú thích booksách|title=《偃师二里头1959年~1978年考古发掘报告》|author=中国社会科学院考古研究所|publisher=中国大百科全书出版社|location=中国北京|year=1999年|language=zh-cn|isbn=7-5000-6197-8}}}} Ngoài khu cung điện có đường đất dọc ngang đan xen, xưởng thủ công, tường thành đất nện.{{RefTag|name=最早的中国}}
 
== Văn hóa ==
Dòng 241:
 
=== Âm nhạc ===
[[FileTập tin:Erlitou stone qing.jpg|thumb|left|Khánh làm bằng đá khai quật tại huyện Hạ, tỉnh Sơn Đông.]]
 
Trung Quốc vào 9000 năm trước, tức sơ kỳ thời đại đồ đá mới, đã có xuất hiện nhạc khí{{NoteTag|1=ống sáo bằng xương thuộc di chỉ [[Giả Hồ]], trấn Bắc Vũ Độ, huyện [[Vũ Dương (huyện)|Vũ Dương]], Tháp Hà, Hà Nam.}}. Về khởi thủy của âm nhạc tại Trung Quốc, các văn hiến ghi chép khác nhau. "Lã thị Xuân Thu-Cổ nhạc thiên" và "Thượng thư-Ích tắc" ghi rằng vào thời kỳ Đế Khốc, Đế Thuấn đã có nhiều loại nhạc khí, trong đó danh xưng một số loại nhạc khí nói chưa rõ. "Sơn Hải kinh-Đại hoang tây ký" ghi rằng "khai thượng tam tần vu thiên, đắc 'cửu biện' dữ 'cửu ca' dĩ hạ. Thử thiên mục chi dã, cao nhị thiên nhận, khai yên đắc thủy ca 'cửu thiều'", nói lại rằng Hạ hậu Khải cưỡi rồng làm khách Thiên cung, trộm lấy 'cửu ca', 'cửu thiều' 'cửu biện' của Thiên Đế để tự mình hưởng dụng, do vậy mà nhân gian có ca nhạc.{{RefTag|name=音乐考古学|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国音乐考古学》|author=王子初|publisher=福建教育出版社|year=2003年|language=Trung văn giản thể|isbn=7533435532}}}} "Lã thị Xuân Thu-Âm sơ" ghi rằng khi Đại Vũ tuần thị đông nam thì gặp gỡ nữ nhi của Đồ Sơn thị, Đồ Sơn thị sáng tác một bài ca "Hậu nhân hề y", đấy là tình ca sớm nhất được ghi chép trong văn hiến, có thuyết cho là khởi điểm của Nam âm thời Hán.{{RefTag|1={{Cite journal|title=“试论南音之始‘候人兮猗’”|author=幸晓峰|journal=《音乐探索》|publisher=四川音乐学院|year=2001年|issue=第3期|language=Trung văn giản thể}}}} "Chu Lễ-Đại ty nhạc" ghi rằng người thời Hạ vì ca tụng công lạo trị thủy của Đại Vũ nên biểu diễn "Đại Hạ", dùng làm nhạc vũ tế tự núi sông, đến thời Chiến Quốc còn được Lỗ quốc dùng làm vũ nhạc diễn xuất cung đình.{{RefTag|1=Tả truyện·Tương công nhị thập cửu niên.}} "Lễ ký-Tế thống" ghi rằng "bát dật dĩ vũ Hạ", tám người thành một dật, tám dật là 64 người tổ thành đội hình biểu diễn có chiều dọc ngang đều nhau, dựa theo lễ pháp thời Chu thì chỉ có thiên tử triều Chu mới có thể dùng đội hình lớn như vậy{{NoteTag|1=Chu thiên tử ban cho [[Lỗ Khang công|Khang công]] của Lỗ quốc.}}, có thể thấy "Đại Hạ" có đẳng cấp cao. Nhạc khí thời kỳ Hạ được chế tác từ xương, gỗ, đá, da, gốm; chủng loại bao gồm dụng cụ diêu hưởng, hưởng cầu, địch, tiêu, cổ, khánh, chung, linh, huân, sừng hiệu lệnh. So với các nền văn hóa khảo cổ xung quanh, nhạc khí khai quật thuộc văn hóa Nhị Lý Đầu rất thiếu thốn.{{RefTag|name=偃师二里头考古发掘报告}} Năm 1960, tại tầng kỳ thứ ba của di chỉ Nhị Lý Đầu tại Yển Sư đã khai quật được một [[huân]] gốm màu tro, tâm rỗng, hình quả trám, phần đầu có một miệng thổi nhỏ, một bên phần thân giữa có lỗ âm có đường kính 0,4 cm, qua thử nghiệm thì nó có thể phát ra hai âm: la thăng thứ, đô thứ.{{RefTag|name=音乐考古学}} Cũng phát hiện được [[thạch khánh]] làm bằng đá, dài 55,5 cm, cao 28,5 cm, dày 4,8 cm, tạo hình đã tiếp cận khánh lễ làm bằng đồng thanh thời kỳ Thương-Chu.{{RefTag|name=郑杰祥}}
 
=== Văn học ===
Nhân dân thời Hạ chủ yếu sử dụng hình thức văn học truyền miệng trong sáng tác văn học. Đề tài ca dạo và sinh hoạt lao động có liên hệ mật thiết, và thần thoại được sử dụng để giải thích một số sự vật khó hiểu trong thế giới tự nhiên. Tuy nhiên, những văn học truyền khẩu này không được truyền bá đến nay, nên trước khi có thể phát hiện tài liệu văn tự đồng thời kỳ với triều Hạ, thì không thể có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về văn học thời Hạ. Có thể gọi nó là thời gian nghệ thuật xưa của văn học nghệ thuật Trung Quốc.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国古代文学史专题》|author=郭丹|publisher=学林出版社|year=2005年|pages=第1页|language=Trung văn giản thể|isbn=7806685006}}}} Người thời Chu súng kính văn hóa triều Hạ, trong tất cả các phương diện đều phỏng theo người thời Hạ mà tạo nên. Trên phương diện ngôn ngữ, người thời Chu nhận định ngôn ngữ thông dụng của triều Hạ là "Hạ ngôn" {{NoteTag|1=Việc Trung Quốc thời cổ có ngôn ngữ nói thông dụng hay không đến nay vẫn là một vấn đề tranh nghị.}} Thời Thượng cổ, "Hạ" 夏, "Nhã" 雅 tương thông, "Hạ ngôn" cũng gọi là "nhã ngôn", là ngôn ngữ được sử dụng trong giao lưu giữa nhân sĩ thuộc thượng tầng xã hội triều Chu, "Thi Kinh" thời Chu chính là sử dụng nhã ngôn để sáng tác{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《中国古代文学史》|author=吴迪|publisher=中国电影出版社|date=1994年11月|location=中国北京|pages=第3页|language=Trung văn giản thể|isbn=7-106-01015-4}}}}
 
=== Kỹ thuật ===
Nghề đúc đồng là thủ công nghiệp mới nổi trọng yếu của triều Hạ. Trong các văn vật thời kỳ thứ nhất và thời kỳ thứ nhì của di chỉ Nhị Lý Đầu, xuất hiện đồ lễ làm bằng ngọc, thể hiện nó có một trình độ văn hóa tương đối. Ngoài ra, nghề làm đồ gốm thời Hạ có khả năng đã trở thành một ngành công nghiệp độc lập rất trọng yếu. Đối với đồ đồng thanh, Trung Quốc đã phát hiện ra dao đồng của văn hóa Nhị Lý Đầu. Nếu như văn hóa Nhị Lý Đầu được xác nhận là văn hóa thời kỳ Hạ, thì đây là đồ đồng thanh của thời kỳ triều Hạ. Công cụ mà người thời Hạ sử dụng được nhận định chủ yếu là đồ đá. "Chu thư" chép rằng vào thời Hạ Kiệt, Côn Ngô thị đem phôi bùn nung thành ngói, cho thấy kiến trúc cuối thời Hạ đã bắt đầu sử dụng ngói.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国建筑史》|author=伊东忠太 著、陈清泉 译|publisher=上海书店|pages=第89页|language=Trung văn phồn thể}}}}。
 
Trong văn hiến thời Tiên Tần có ghi chép về việc quan triều hạ là [[Hề Trọng]] tạo ra xe, viễn tổ [[Tiết (nước)|nước Tiết]] là Hề Trọng được [[Hạ Hậu]] bổ nhiệm làm 'xa chính', quản lý sự vụ chế tạo xe.{{RefTag|1=《左传》杜预 注文、《墨子·非儒下》、《荀子·解蔽》、《吕氏春秋·君守》、《世本·作篇》、《管于》.}} "Sử ký-Hạ bản kỉ" cũng ghi chép rằng trong thời Hạ Vũ trị thủy "đi đường bộ ngồi xe, đi đường thủy ngồi thuyền", cho thấy xe đã xuất hiện ngày từ thời Đại Vũ. "Tả truyện" chép rằng "minh thí dĩ công, xa phục dĩ dung"{{RefTag|name=僖公二十七年}}, rằng Hạ hậu đem xe làm vật thưởng công cho hạ quan. Ngoài ra, "Thế bản" có chép rằng "[[Vương Hợi|Hợi]] tác phục ngưu{{NoteTag|1=xe bò có tê cổ là "đại xa".{{RefTag|name=车与马之关系|1={{Cite journal|title=“中国古代车与马之关系”|author=舒韶雄|journal=《湖北广播电视大学学报》|year=2003年|month=3月|volume=卷二十|issue=第1期|publisher=|location=湖北黄石|language=Trung văn giản thể}}}}}},[[Tướng Thổ]] tác thừa mã{{NoteTag|1=xe ngựa có tên cổ là "tiểu xa".{{RefTag|name=车与马之关系}}}}”{{RefTag|1=《世本·作篇》.}}, và có bốc từ Ân khư làm chứng, chứng minh bộ tộc Thương đồng thời kỳ đã có xe ngựa.{{RefTag|name=中国远古暨三代军事史}}
 
Bè và thuyền độc mộc xuất hiện sớm nhất là vào trung kỳ văn hóa Long Sơn thuộc thời đại đồ đá mới, người Hạ trong một thời gian dài đã cư trú nương nhờ Hoàng Hà, Y Thủy, Lạc Thủy, thuyền bè do vậy trở thành công cụ vượt sông phổ biến. Thời Hạ vào trung hậu kỳ bước vào thời đại đồng thanh, sự xuất hiện của công cụ thuộc kim tạo điều kiện để chế tạo thuyền độc mộc, có thể nói thuyền mộc bản xuất hiện sớm nhất tại Trung Quốc là vào thời Hạ.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国航海史(古代航海史)》|author=中国航海学会|publisher=人民交通出版社|date=1988年12月|language=Trung văn giản thể|isbn=7-114-00407-9}}}} Tộc Đông Di cư trú ven bờ Hoàng Hải, sở hữu kỹ thuật hàng hải khá cao, đây là lĩnh vực mà Hạ hậu thị với văn minh dòng sông không thể theo kịp. "Luận ngữ-Hiến vấn" chép rằng "Nghệ thiện xạ, [[Hàn Kiêu|Ngạo]]{{NoteTag|1={{Tiêu âm|繁=奡|简=奡|拼音=Ào|注音=ㄠˋ|同音字=傲}}, 异体字:“[[FileTập tin:奡-异体字.png|15px|“奡”的异体字]]”。}}đãng{{NoteTag|1=熟练操驾舟船,异体字:“荡”。}} chu{{RefTag|name=宪问}}”, Ngạo tức là con của Hàn Trác tên Kiêu{{NoteTag|name=浇}}, rằng ông là một nhân vật giỏi điều khiển thuyền, và lại có chữ "đãng" nên có thể nói đây là một kiểu đi thuyền có mục đích, dùng nhân lực điều khiển khống chế, không phải để trôi dạt như trước. "Vũ cống" nói "triêu tịch nghênh chi, tắc toại hành nhi thượng{{RefTag|name=禹贡}}”, rằng người Hạ biết lợi dụng quy luật thủy triều sáng tối để đi thuyền.
 
=== Thiên văn lịch pháp ===
Người thời Hạ có khả năng đã sở hữu nhiều tri thức về thiên văn, lịch pháp. "Tả truyện-Chiêu công thập thất niên" dẫn từ "Thượng thư-Hạ thư" chép rằng "thần bất tập vu phòng"{{NoteTag|name=弗}}{{RefTag|name=昭公十七年}}, chỉ việc [[Mặt Trời]] không xuất hiện hoàn chỉnh ở phía trên không của ngôi nhà, đây là ghi chép về nhật thực sớm nhất của Trung Quốc được biết đến{{NoteTag|1=Ngoài ra, "Cổ văn thượng thư" ghi chép chi tiết về nhật thực xảy ra ngày Canh Tuất mùng 1 tháng 9 năm Quý Tị Trọng Khang thứ 5, học giả căn cứ vào đó mà suy tính thành nhiều giả thuyết như là ngày 22 tháng 10 năm 2137, hay ngày 7 tháng 5 năm 2165{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国古代天文学简史》|author=陈遵妫|publisher=上海人民出版社|year=1955年|pages=第54—55页|language=Trung văn phồn thể}}}}, tuy nhiên những văn hiến ban đầu như "Hán thư-Luật lịch chí", "Tấn thư-Thiên văn chí" đều không ghi về lần nhật thực này, sau này "Cổ văn thượng thư" bị giới học giả phổ biến nhận định là do người thời Tấn làm giả.{{RefTag|name=王玉哲}}}} "Trúc thư kỉ niên" ghi rằng vào năm Hạ Kiệt thứ 15 "Dạ trung tinh vẫn như vũ"{{RefTag|name=竹書紀年}} (trong đêm sao rơi như mưa), là ghi chép sớm nhất về [[mưa sao băng]]. "Thái bình ngự lãm" dẫn "Hiếu kinh câu mệnh quyết" viết "(Vũ thời, ngũ) sao chồng chất như quán châu{{NoteTag|1=chỉ 5 hành tinh kim, thủy, mộc, hỏa, thổ.}}, rõ như liên bích{{NoteTag|1=chỉ nhật, nguyệt.}}。{{RefTag|1=宋·《太平御览·卷七》 dẫn từ《孝经钩命诀》.}}", chép về việc vào sơ kỳ thời Hạ từng xảy ra hiện tượng thiên văn hiếm thấy "ngũ tinh tụ" của [[sao Kim|Kim]], [[sao Mộc|Mộc]], [[sao Thủy|Thủy]], [[sao Hỏa|Hỏa]], [[sao Thổ|Thổ]].{{NoteTag|1=Căn cứ nghiên cứu thiên văn học, lúc gần sáng ngày 23 hoặc 23 tháng 2 năm 1953 TCN, trên đường chân trời phía đông bình nguyên Hoa Bắc, năm hành tinh là Kim, Thủy, Mộc, Hỏa, Thổ xếp thành một hàng, cự ly góc nhìn giữa các hành tinh là dưới 4°, chính là vào sơ kỳ kiến quốc của Hạ hậu thị{{RefTag|name=夏商周断代工程成果报告简本}}. Quỹ đạo hành tinh thay đổi nhiều, thời cổ đại không có điều kiện tính toán "ngũ tinh tụ", do vậy không có nhiều khả năng là người thời Tống làm giả dựa theo nghịch suy. Tuy nhiên, dưới góc độ văn hiến học, những lần hành tinh tụ được ghi chép trong lịch sử Trung Quốc đa phần bắt nguồn từ nhu cầu chính trị, thiên văn học hiện đại khó mà công nhận. Những lần "ngũ tinh hội" dựa theo chính trị tương tự có niên hiệu Thái Sơ thời Hán, Thiên Bảo thời Đường, Càn Đức thời Tống, Thái Tổ thời Nguyên, Gia Tĩnh thời Minh..{{RefTag|1={{Cite journal|title=“关于夏代积年与‘五星聚’”|author=张富祥|journal=《管子学刊》|publisher=山东理工大学齐文化研究院|location=山东淄博张店区|year=2005年|issue=第3期|language=Trung văn giản thể}}}}}} Thời ba vị quân chủ vãn kỳ triều Hạ là Dận Giáp (Cận), Khổng Giáp, Lý Quý (Kiệt), đều lấy thiên can làm tên, cách làm này gần như phương thức mệnh danh của quân chủ triều Thương, nếu quả thực là xưng vị thời Hạ chứ không phải biệt danh người thời Ân-Chu thêm vào, thì có thể nói phép ghi ngày [[Can Chi]] đã xuất hiện vào vãn kỳ triều Hạ{{RefTag|name=大百科}}. Căn cứ "Trúc thư kỉ niên", lúc thay thế Hạ-Thương, có viết về các hiện tượng kỳ dị "hoàng sắc đích thanh oa, hôn ám đích điều dưỡng, tam cá thái dương, thất nguyệt kết sương hòa ngũ cốc điêu linh" (sương mù màu vàng, một mặt trời mờ, sau đó ba mặt trời, sương giá trong tháng bảy, ngũ cốc tàn rụng), có học giả nhận định đó là ghi chép về phun trào núi lửa Minoa tại khu vực nay thuộc [[Hy Lạp]]{{RefTag|1={{Cite journal|author={{Lang|en|Foster, K.P.,Ritner, R.K., Foster, B.R.}}|year=1996|title=“{{Lang|en|Texts, Storms, and the Thera Eruption}}”|journal={{Lang|en|Journal of Near Eastern Studies}}|volume=55|issue=1|pages=1–14|doi=10.1086/373781}}}}。
 
Trong "Luận ngữ", Khổng Tử chủ trương "hành Hạ chi thời"{{RefTag|1=《论语·卫灵公》.}}, đến nay nông lịch truyền thống Trung Quốc còn có biệt danh là "Hạ lịch", dựa theo những dấu tích này có thể nói rằng vào thời Hạ do nhu cầu sản xuất nông nghiệp, kết hợp tri thức thiên văn tích lũy được mà biên thành lịch pháp giản đơn. "Hạ lịch" đều có ghi chép trong các văn hiến thời Tiên Tần như "Thi Kinh", "Tả truyện", "Trúc thư kỉ niên", ít nhất là thông dụng trong nội bộ nước Đường (tức [[Tấn (nước)|nước Tấn]]) thời Chu sơ. "Hạ tiểu chính" nguyên là một thiên của "Đại đái lễ ký", kinh văn này có một bộ phận câu văn giản ước thâm sâu, không như văn phong Đông Chu, chậm nhất là hoàn thành vào tảo kỳ Xuân Thu, là lịch thư sớm nhất của Trung Quốc, có ghi chép giản đơn về vật hậu, khí hậu, tinh tượng các tháng. "Hạ tiểu chính" căn cứ theo sự đầy khuyết của Mặt Trăng mà phân một năm thành 12 tháng, song không có dấu hiệu 5 năm đặt hai tháng nhuận, cũng không phân biệt bốn mùa. Trong ghi chép tháng 5 có "thời hữu dưỡng nhật", trong ghi chép tháng 10 có "thời hữu dưỡng dạ"{{RefTag|name=夏小正}}, "Tả truyện" chú giải "dưỡng giả trường dã", nói rằng tháng 5 của "Hạ tiểu chính" có ngày dài nhất (tức Hạ chí", tháng 10 có đêm tối dài nhất (tức Đông chí), tuy nhiên Đông chí tại bình nguyên Hoa Bắc ứng vào tháng 11 thay vì tháng 10, cho thấy rằng loại lịch pháp này không chuẩn xác, niên đại chế thành tương đối nguyên thủy.{{RefTag|name=王玉哲}}
 
=== Tôn giáo ===
[[FileTập tin:二里头三期无圹墓骨架.png|thumb|250px|left|Mộ không huyệt thời kỳ thứ 3 tại di chỉ Nhị Lý Đầu, bộ xương có dấu hiệu vùng vẫy khi bị trói, biểu thị khả năng là tế người.]]
Sức sản xuất thời kỳ viễn cổ thấp kém, ngay cả trong điều kiện thời tiết thuận lợi cũng không thể hoàn toàn tránh được nguy hiểm thiếu lương thực. Nhân dân nhận thấy bất lực trước tình hình, tìm cách thông qua lực lượng tự nhiên siêu việt để đạt đến nguyện vọng chi phối tự nhiên nhằm đảm bảo được mùa. Do đó hi sinh người và động vật để làm hài lòng thiên thần, thử lợi dụng hoạt động tế tự nhằm thoát khỏi áp lực của thế giới tự nhiên đối với sinh tồn của nhân loại. Tế người tại lưu vực Hoàng Hà sớm nhất được biết đến là trong [[văn hóa Tề Gia]] tại thượng du, đương thời thường là vợ tuẫn táng theo chồng, sau phát triển thành nô bộc tuẫn táng, cho rằng linh hồn của thê thiếp và nô bộc có thể phục vụ chủ nhân trong thế giới sau khi chết{{RefTag|name=中国全史宗教史|1={{Citechú bookthích sách|title=《百卷本中国全史·远古暨三代宗教史》|author=史仲文、胡晓林 主编|volume=卷五|publisher=人民出版社|year=1994年|language=Trung văn giản thể|isbn=9787010014562}}}}. Văn hóa Nhị Lý Đầu cũng có dấu tích của việc tế người, song quy mô rất nhỏ so với số lượng tế tự hàng trăm người thời Thương. Mộ táng tại di chỉ Nhị Lý Đầu thuộc Yển Sư phân thành hai loại là mộ có huyệt và mộ không có huyệt. Mộ đất một người có huyệt chiếm đa số, người được chôn nằm ngửa và thẳng, hiện tượng bồi táng khá ít{{RefTag|name=偃师二里头考古发掘报告|1={{Citechú thích booksách|title=《偃师二里头1959年~1978年考古发掘报告》|author=中国社会科学院考古研究所|publisher=中国大百科全书出版社|location=中国北京|year=1999年|language=Trung văn giản thể|isbn=7-5000-6197-8}}}}. Ngoài ra, còn có một thiểu số là mộ không huyệt, không có đồ tùy táng, đôi khi có mảnh vỡ đồ gốm, thậm chí có khi đồng táng với thú vật, có thể thấy người được chôn có địa vị xã hội thấp kém, khi còn sống có khả năng là tội nhân, tù binh chiến tranh, hoặc nô bộc. Nhiều người được chôn trong mộ không huyệt thể hiện dấu hiệu tử vong không bình thường. Thân thể người được chôn có tư thế cực kỳ không tự nhiên, có các dấu hiệu bị trói trước khi chết như hai tay bắt chéo giơ quá đỉnh đầu, đặt trước ngực, hoặc cong về sau lưng, thậm chí còn có một số sọ bị vỡ, thân và đầu tách rời. Có khả năng là chứng cứ về nhân tế, nhân tuẫn thời kỳ Hạ{{RefTag|name=中国全史宗教史}}. Trừ tế người, tế ruộng, thời Hạ còn có hoạt động tế nhà, xung quanh cung điện số 1 kỳ thứ 3 của di chỉ Nhị Lý Đầu có một số hố tế tự, phát diện xương các loài thú như chó, lợn{{NoteTag|1=Từ Lương Cao căn cứ vào đây dể nghi vấn rằng nền móng số 1, số 2 của di chỉ Nhị Lý Đầu Yển Sư đều không phải kiến trúc cung điện mà là tông miếu, hoặc có thể nói văn hóa Nhị Lý Đầu (văn hóa Hạ) thực hành thế chế tế-chính hợp nhất.{{RefTag|name=徐良高|1={{Cite journal|title=“近年来夏商周考古学研究的主要进展”|author=王巍|journal=《三代考古》|publisher=科学出版社|date=2004年9月|location=中国北京|volume=第一册|pages=第19—20页|language=zh-cn|isbn=7-03-014010-9}}}}}} Còn có năm ngôi mộ táng tại khu sân và hành lang, người được chôn đều tử vong không bình thường, không có vật phẩm tùy táng, huyệt mộ chật hẹp, phá vỡ nền móng cung điện, không xác định được là tế tự dựng móng hay tế tự hoàn thành{{RefTag|1={{Cite journal|title=“二里头遗址宫殿建筑基址初步研究”|author=杜金鹏|journal=《考古学集刊》|publisher=文物出版社|year=2005年|issue=第16集|language=Trung văn giản thể}}}}。
 
Nhân dân viễn cổ khi nướng thịt thú thì phát hiện hiện tượng xương bị vỡ, tạo thành những vết nứt vỡ với hình dạng khác nhau, có phần khó hiểu, khiến người xưa chú ý. Sau này, khi đạt được kết quả viên mãn trong các hoạt động như săn thú, chiến tranh, mọi người bắt đầu liên hệ hai thứ với nhau, xem đó là điềm trước của thần linh với sự vật, tích lũy thành tri thức gọi là chiêm bốc. Do trình tự phức tạp, tri thức nhiều và sâu, nên trong bộ lạc có vu sư chuyên việc xem bói, độc quyền giải thích bốc cốt. Lưu vực Hoàng Hà trong thời kỳ [[văn hóa Long Sơn]] bắt đầu hưng thịnh chiêm bốc{{RefTag|name=中国全史宗教史}}. "Tả truyện" chép rằng triều Hạ có quan lại chiêm bốc{{RefTag|name=哀公十八年|1=《左传·哀公十八年》 dẫn từ 《尚书·夏书》。{{NoteTag|name=《左传》引文}}}}. Toàn kỳ thứ 4 văn hóa Nhị Lý Đầu đều khai quật được bốc cốt bả vai bò, dê, lợn. Những bốc cốt này chỉ bị đốt cháy ở mặt sau, không đâm không đục, chưa khắc chữ, tương đối nguyên thủy hơn so với [[bốc từ]] Ân Khư{{RefTag|name=偃师二里头考古发掘报告}}。
Dòng 290:
| Đại Vũ 大禹, Nhung Vũ 戎禹{{RefTag|name=戎禹|汉•[[王符]],《潜夫论•五德志》.}}, Cao Mật 高密, Văn Mệnh 文命<br />(Hạ Vũ 夏禹{{RefTag|name=夏禹|1=《墨子•節用下》.}}, Đế Vũ 帝禹, Tung bá Vũ 崇伯禹, Hạ bá Vũ 夏伯禹)
| align=right | {{NoteTag|1=Nhậm chức Hạ bá.}}[[thế kỷ 21 TCN|2029 TCN]]<sup>Nhâm Thân</sup>—[[thế kỷ 20 TCN|1993 TCN]]
| 37 năm <br />{{NoteTag|name=禹八年|1=“元年壬子帝即位……八年春会诸侯于会稽……秋八月帝陟于会稽。”{{RefTag|name=竹书纪年集解|1={{Citechú bookthích sách|title=《竹书纪年集解》|author=梁沈约|publisher=广益书局|year=1936年|language=Trung văn phồn thể}}}}}}<br />{{NoteTag|name=禹立四十五年|1=“禹立四十五年。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}};「《紀年》曰:禹立四十五年。」{{RefTag|name=《太平御覽》卷八二皇王部|1=《太平御览》卷八二皇王部.}}}}
| Cao Mật 高密
|-
Dòng 308:
| 16 năm <br />{{NoteTag|1=“十六年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
|-
| rowspan=2 align=center | [[Thái Khang|Khang]] <font size="+2">康</font><br />{{NoteTag|name=康|1=[[Thái Khang]], [[Trung Khang]], [[Thiếu Khang]] đều tên là "Khang", để tránh hỗn hào, hậu nhân chú thêm vào để phân bậc.{{RefTag|name=王玉哲|1={{Citechú bookthích sách|title=《中国断代史系列—中华远古史》|author=王玉哲|publisher=上海人民出版社|date=2000年7月|isbn=7-208-03283-1|language=Trung văn giản thể}}}}}}
| rowspan=2 | Thái Khang 太康{{NoteTag|name=康}}
| rowspan=2 align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 20 TCN|1962 TCN]]—[[thế kỷ 20 TCN|1959 TCN]], bốn năm tang kỳ Kỉ Mão, Canh Thìn, Tân Tị, Nhâm Ngọ.}}[[thế kỷ 20 TCN|1958 TCN]]<sup>Quý Mùi</sup>—[[thế kỷ 20 TCN|1955 TCN]]
Dòng 316:
|-
| align=center | [[Trung Khang|Khang]] <font size="+2">康</font><br />{{NoteTag|name=康}}<br />{{NoteTag|1=đệ của [[Thái Khang]].}}
| Trung Khang 中康, Trọng Khang 仲康, Trọng Lô 仲盧{{RefTag|name=中華通史|1={{Citechú bookthích sách|title=《中華通史》|volume=第一冊|author=章嶔|language=Trung văn phồn thể}}}}{{NoteTag|name=康}}
| align=right | {{NoteTag|1=[[thế kỷ 20 TCN|1954 TCN]]—[[thế kỷ 20 TCN|1953 TCN]], hai năm tang kỳ Đinh Hợi, Mậu Tý}}[[thế kỷ 20 TCN|1952 TCN]]<sup>Kỉ Sửu</sup>—[[thế kỷ 20 TCN|1946 TCN]]
| 7 năm <br />{{NoteTag|1=“七年陟。”{{RefTag|name=竹书纪年集解}}}}
Dòng 413:
| Hà Nam 河南
|-
| colspan=7 style="background: #CDCDCD;" | "Chú": Kết hợp cổ kim bản "Trúc thư kỉ niên" thể hệ suy toán, do niên đại quá xa, ghi chép thiếu thốn, các nhà chuyên môn suy toán khác nhau, niên đại trong biểu trên chỉ để tham khảo.{{RefTag|1={{Citechú bookthích sách|title=《今本竹書紀年疏證》|author=王国维|language=Trung văn phồn thể}}}}{{RefTag|1={{Citechú thích booksách|title=《古本竹书纪年辑证》|author=方诗铭、王修龄|publisher=上海古籍出版社|date=2005年10月|language=Trung văn giản thể|isbn=9787532541911}}}}
|}
 
== Chú thích ==
{{ReflistHtham khảoH|2}}
{{NoteFoot}}
{{ReflistFtham khảoF}}
== Tư liệu tham khảo ==
{{ReflistHtham khảoH|2}}
{{RefFoot}}
{{ReflistFtham khảoF}}
=== Thư mục tham khảo ===
{{ReflistHtham khảoH}}
* 《中國神話傳說》,[[袁珂]] 著,里仁書局,ISBN 957-9113-42-4
* 《中國通史》,戴逸、龔書鐸 著,漢湘文化,ISBN 986-7348-07-9
* 《中華文明傳真─東方的曙光》,趙春青、秦文生 著,[[商务印书馆]],ISBN 962-07-5314-3
{{ReflistFtham khảoF}}
 
[[Thể loại:Nhà Hạ| ]]